Wednesday, 14 April 2010

Lãi suất huy động tại ACB có bất thường?

Biểu lãi suất huy động với nhiều kỳ hạn có từ 11% - 11,6%/năm của ACB bắt đầu áp dụng từ ngày 13/4/2010.

Ngân hàng Á châu (ACB) vừa ban hành biểu lãi suất huy động mới với những mức vượt trội so với mặt bằng chung trên thị trường
Ngân hàng Á châu (ACB) vừa ban hành biểu lãi suất huy động mới với những mức vượt trội so với mặt bằng chung trên thị trường.

Ngày 13/4, ACB ban hành biểu lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh toán linh hoạt lãi suất thả nổi. Trong đó, nhiều kỳ hạn ở một số loại tiền gửi đồng loạt ở mức cao so với mặt bằng chung hiện nay.

Cụ thể, lãi suất tiền gửi tiết kiệm lãi suất thả nổi bằng VND có mức cao nhất lên tới 11,6%/năm với các khoản tiền gửi có giá trị từ 10 tỷ đồng trở lên. Nhiều kỳ hạn khác, ứng với các khoản tiền gửi từ 500 triệu đồng đến dưới 10 tỷ đồng cũng đồng loạt được áp lãi suất từ 10,7% - 11,58%/năm.

Tương tự, lãi suất tiền gửi thanh toán VND từ kỳ hạn 2 tháng trở lên cũng có từ 10,48% (khoản tiền dưới 100 triệu đồng) đến 11,6%/năm (từ 10 tỷ đồng); phổ biến trên 10,5%/năm.

Những mức lãi suất huy động trên của ACB vượt trội so với biểu lãi suất mà hầu hết các ngân hàng thương mại đang áp dụng (mức cao nhất phổ biến ở 10,499%/năm).

Trả lời VnEconomy chiều nay (14/4), ông Nguyễn Thanh Toại, Phó tổng giám đốc ACB, cho rằng biểu lãi suất vừa ban hành đó không có gì là bất thường.

Theo giải thích của ông Toại, trước đây, ACB cũng như nhiều ngân hàng khác áp lãi suất huy động VND tối đa là 10,49%/năm. Tuy nhiên, bên cạnh lãi suất ngân hàng còn bỏ ra nhiều chi phí khác để thu hút người gửi tiền như tặng vàng, tặng tiền mặt, cộng thưởng lãi suất hay các hình thức khuyến mại khác.

“Thực chất, các hình thức khuyến mại và chi phí thêm đó cũng đã gián tiếp tạo những mức lãi suất như ACB vừa ban hành. Ngân hàng Nhà nước không khuyến khích các ngân hàng mở rộng các chương trình tặng thưởng, khuyến mại đó và chúng tôi tập trung ở lãi suất huy động”, ông Toại giải thích.

Nhưng liệu biểu lãi suất mới của ACB có vượt “trần” 10,5%/năm mà Ngân hàng Nhà nước định hướng trước đó?

Về câu hỏi trên, ông Toại cho rằng hiện không có quy định nào về trần lãi suất huy động cả. Trước đây Ngân hàng Nhà nước đưa ra mức 10,5%/năm là một tiêu chí để kiểm tra xem những trường hợp nào đưa lãi suất vượt mốc đó có vấn đề về thanh khoản hay không. Và nếu xét theo thực tế, nếu tính các chi phí gián tiếp nói trên thì hầu hết các ngân hàng đều có lãi suất cao hơn mốc định hướng này.

Một câu hỏi khác, với lãi suất huy động cao như vậy, ACB có điều kiện để áp lãi suất cho vay đầu ra “mềm” hơn, hay giữ được tỷ lệ lãi biến hợp lý?

Điều này cũng được ông Toại giải thích rằng, về cơ bản chi phí huy động vẫn không nhiều thay đổi với với việc áp tối đa 10,49%/năm trước đó, nên ACB vẫn giữ được những yêu cầu trong hoạt động cho vay; cũng như dự báo lãi suất cho vay nói chung có thể tiếp tục giảm thêm.

Phó tổng giám đốc ACB cho biết hiện đã lên kế hoạch dành 20.000 tỷ đồng cho vay với lãi suất tối đa 14%/năm, tập trung cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp xuất khẩu – những khách hàng mục tiêu của ngân hàng này.

(Theo Vneconomy)

Vàng đứng giá, đôla Mỹ xuống dưới 19.000 đồng

Lần đầu tiên trong vòng nhiều tháng, niêm yết mua đôla Mỹ trên thị trường chợ đen lùi sâu dưới mức 19.000 đồng. Trong khi đó, giá bán vàng vẫn giữ nguyên ở quanh 26,49 triệu đồng từ chiều qua.

Thương hiệu vàng SJC tại TP HCM hiện được mua và bán ở 26,43 - 26,49 triệu đồng. Tuy đắt hơn sáng qua 40.000 đồng nhưng giá nay vẫn đứng yên so với chiều 14/4. Tại Hà Nội, các doanh nghiệp bán vàng SJC cao hơn 20.000 đồng nhưng vẫn mua ở 26,43 triệu đồng một lượng.

Nhiều thương hiệu vàng ở Hà Nội vẫn giữ nguyên mức niêm yết từ chiều qua đến nay, sau khi điều chỉnh tăng khoảng 30.000 đến 40.000 đồng so với sáng 14/4. Vàng SBJ của công ty vàng bạc đá quý Sacombank SBJ được niêm yết đầu ngày ở 26,44 - 26,48 triệu đồng một lượng. So với sáng qua, giá nay nhích nhẹ 20.000 đồng.

Trong khi đó, đôla Mỹ trên thị trường chợ đen vẫn trên đà giảm dần đều. Sau khi niêm yết ở mức 19.030 - 19.060 (mua - bán) hôm thứ ba, sáng nay giá bán USD chợ đen chỉ còn 19.020 đồng. Cùng lúc đó, lần đầu tiên kể từ tháng 11 năm ngoái, các điểm thu đổi ngoại tệ đưa niêm yết mua USD xuống dưới 19.000 đồng, chỉ còn 18.980 đồng một USD. Đây là lần đầu tiên giá mua đôla Mỹ trên thị trường tự do xuống dưới 19.000 đồng, sau khi có diễn biến leo thang hồi tháng 11 năm ngoái.

đôla Mỹ
Các ngân hàng thương mại bán đôla Mỹ với giá chỉ từ 19.000 đến 19.020 đồng trong sáng nay. Ảnh: Hoàng Hà

Giá USD của các ngân hàng thương mại cũng có mức giảm khá mạnh. Ngân hàng Vietcombank hiện niêm yết mua bán đôla Mỹ ở 18.970 - 19.020 đồng, hạ 40 đồng so với hôm 13/4. Eximbank còn để giá thấp hơn, mua bán tại 18.950 - 19.010 đồng một USD tính đến 8h57 sáng nay. Tại ngân hàng ACB, giá bán mỗi USD chỉ còn 19.000 đồng.

Trên thị trường quốc tế, giá vàng giao ngay leo từ mức 1.153 USD lên có lúc vượt 1.160 USD một ounce trong phiên giao dịch hôm qua. Đến phiên châu Á sáng nay, mỗi ounce vàng tiếp tục tăng 2,2 USD so với mở cửa, đạt 1.157 USD tính đến 8h48 theo giờ Hà Nội. Hôm thứ 2, có lúc thị trường đạt đỉnh cao nhất kể từ 4/12 năm ngoái ở 1.168,70 USD.

Đôla Mỹ vẫn trong thế phòng ngự trong sáng thứ 5 khi các loại tiền khác như đôla Australia tiếp đà tăng trong khả năng Trung Quốc nâng giá đồng nhân dân tệ. Viễn cảnh này có thể tiếp sức cho đà tăng trên thị trường vàng do khi nhân dân tệ tăng giá, vàng sẽ trở nên rẻ hơn đối với những người sở hữu đồng tiền này. Bên cạnh đó, khi Trung Quốc chịu tăng giá đồng nội tệ là lúc họ đã nhìn thấy nguy cơ lạm phát.

Hôm nay, nhà đầu tư đang chờ thông tin GDP quý 1 và chỉ số giá tiêu dùng tháng 3 của Trung Quốc để đánh giá tình hình kinh tế nước này. Cũng trong ngày, Mỹ sẽ công bố báo cáo số lượng đơn xin trợ cấp thất nghiệp tuần.


(Theo Vnexpress)

Không nhân nhượng với ngân hàng ốm yếu

Những trường hợp không tăng đủ vốn điều lệ theo quy định hoặc gặp khó khăn về thanh khoản sẽ ít cơ hội trông cậy vào sự bao bọc của Nhà nước như trước.

Thông điệp này được cơ quan quản lý nhà nước kín đáo phát đi thời gian gầy đây, khi lường trước khả năng một số ngân hàng không đáp ứng yêu cầu tài chính.

Theo quy định của Chính phủ, 31/12/2010 là hạn chót để các ngân hàng cổ phần phải tăng vốn lên ít nhất 3.000 tỷ đồng. Trong tổng số 37 ngân hàng cổ phần đang hoạt động, khoảng 20 trường hợp chưa đạt mức vốn yêu cầu. Thế nhưng từ đầu năm tới nay, mới có 6 hồ sơ xin tăng vốn được duyệt, trong đó 3 hồ sơ đến từ những ngân hàng vốn trên 3.000 tỷ. Hai ngân hàng trong số này là Kiên Long và Saigon Bank, lần lượt xin nâng lên 2.000 tỷ và 1.500 tỷ.

Tăng vốn điều lệ là bài toán khó giải của các ngân hàng  nhỏ năm nay. Ảnh: Hoàng Hà
Tăng vốn điều lệ là bài toán khó giải của các ngân hàng nhỏ năm nay. Ảnh minh họa: Hoàng Hà

Cuối tháng này, mùa đại hội cổ đông mới kết thúc nhưng cũng đủ để người ta hình dung cách mà các ngân hàng thương mại cổ phần giải bài toán tăng vốn điều lệ. Phần đông chọn con đường tăng vốn thông qua cổ đông hiện hữu, số khác tìm đối tác trong, ngoài nước hoặc tính chuyện niêm yết. Tuy nhiên, việc có quá nhiều ngân hàng cùng lúc tìm cách tăng vốn sẽ khiến mục tiêu 3.000 tỷ trở nên xa vời với một số ngân hàng không lấy làm khỏe mạnh.

Đại hội cổ đông của Ngân hàng Phương Đông (OCB) hôm 12/4 đã thông qua phương án tăng vốn từ 2.000 tỷ lên 3.100 tỷ đồng. OCB sẽ tăng vốn thông qua việc phát hành từ thặng dư vốn, phát hành mới cho cổ đông hiện hữu, bán thêm cho đối tác chiến lược nước ngoài và bán chọn lọc cho đối tác trong nước. Kế hoạch niêm yết trong năm nay cũng đã được cân nhắc.

Trong số 20 ngân hàng đang trên đường đua về đích 3.000 tỷ đồng, Gia Định Bank phải chạy quãng đường dài nhất. Vốn điều lệ của ngân hàng hiện là 1.000 tỷ đồng. Theo như nghị quyết đại hội cổ đông của ngân hàng, dự kiến việc tăng vốn lên 2.000 tỷ sẽ hoàn tất vào tháng 8 và đợt cuối sẽ hoàn tất vào tháng 11 năm nay.

Trong đợt một, Gia Định sẽ phát hành gần 3,6 triệu cổ phiếu thưởng cho cổ đông hiện hữu và phát hành 94,6 triệu cổ phần chào bán cho cổ đông hiện hữu. Trong đợt tăng vốn lần hai lên 3.000 tỷ đồng, ngân hàng sẽ chào bán 100 triệu cổ phần cho cổ đông hiện hữu và bán nốt số cổ phần nếu chưa bán hết trong đợt một.

Ngân hàng cũng dự trù sẵn khả năng xử lý số cổ phần không chào bán hết bằng cách tiếp tục chào bán cho các nhà đầu tư trong nước có nhu cầu với mức giá và điều kiện phù hợp, nhưng không thấp hơn giá chào bán cho cổ đông hiện hữu và có thể xin phép Ủy ban Chứng khoán cho gia hạn thời gian chào bán nếu vẫn chưa bán hết.

Theo báo cáo kết quả kinh doanh của Gia Định Bank, tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn tự có bình quân đạt 5,13% và tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản bình quân đạt 1,97%.

Ông Trần Thiên Hà, Tổng giám đốc Công ty Chứng khoán An Phát cho biết cổ phiếu ngân hàng giờ không còn là vua trên thị trường chứng khoán. Trong điều kiện kinh tế vĩ mô hiện nay và với cách huy động vốn của các ngân hàng, cơ hội thành công trong việc nâng vốn điều lệ không dành cho những ngân hàng chiếu dưới, với mức lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu dưới 11-12%.

“Các ngân hàng có thể sẽ phải tự niêm yết, tự lấy tiền đó cho vay để họ tự nâng vốn của mình lên. Việc niêm yết hoàn toàn là giải pháp kỹ thuật để tăng vốn, còn sau đó phải đắp chiếu chờ thời. Có thể năm sau thị trường ấm lên, cổ phiếu ngân hàng lại có thể bán ra nhưng chi phí cơ hội cực kỳ lớn,” ông Hà nói.

Việc bán cho cổ đông hiện hữu về nguyên tắc không thể dưới mệnh giá. Trong khi giá cổ phiếu đang giao dịch loanh quanh ở mức mệnh giá và thanh khoản rất thấp thì nhiều cổ đông sẽ từ chối quyền mua. Thực tế hiện nay nhiều ngân hàng đang mắc vào tình trạng như vậy.

“Các ngân hàng năm nay lên sàn như MB, Habubank, Đông Á… sẽ thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư. Nên các ngân hàng nhỏ sẽ bị lãng quên nhiều. Thực ra giao dịch thấp thì mức độ đại chúng hóa sẽ kém, dẫn tới việc tăng vốn sẽ rất vất vả vì cổ đông hiện hữu chưa chắc đã tham gia,” ông Hà giải thích thêm.

Ông Đoàn Đức Vịnh, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Chứng khoán Âu Việt cho biết đa phần các ngân hàng trước sức ép tăng vốn sẽ tìm đến các tổ chức trong và ngoài nước.

“Hiện tại là thời điểm xấu để niêm yết nhưng về dài hạn vẫn thành công. Đây là cơ hội cho nhà đầu tư nước ngoài mua được cổ phần với tỷ lệ cao tại một ngân hàng Việt Nam hoặc sẽ có sự thâu tóm, mua bán sáp nhập với nhau giữa các ngân hàng”, ông Vịnh nhận định.

Trao đổi với VnExpress.net, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu tuyên bố sẽ quyết thực hiện nghiêm lộ trình tăng vốn và không có sự nhân nhượng. Ngân hàng Nhà nước có các biện pháp khác nhau để xử lý những trường hợp không tăng đủ vốn theo quy định, trong đó có phương án buộc sáp nhập.

Từ đầu năm tới nay, Ngân hàng Nhà nước đã chuẩn bị hành lang pháp lý phòng cho trường hợp phải xử lý các ngân hàng có vấn đề. Gần đây nhất, cơ quan này đã ban hành thông tư quy định việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ chức tín dụng. Trước đó, thông tư quy định về việc kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng cũng đã được ban hành. Dự thảo thông tư hướng dẫn thu hồi giấy phép ngân hàng và thanh lý dưới sự giám sát của Ngân hàng Nhà nước cũng đang trong giai đoạn lấy ý kiến. Theo một nguồn tin không chính thức, Ngân hàng Nhà nước cũng đã lập tổ công tác về mua bán sáp nhập các ngân hàng.

37 ngân hàng cổ phần của Việt Nam hiện nay chia ra nhiều nhóm khác nhau, tùy theo năng lực tài chính và quy mô hoạt động. Trong số này, không ít những trường hợp có lịch sử hoạt động yếu, được bơm vốn thêm và nâng cấp để tồn tại song vẫn chưa thể theo kịp mặt bằng, thậm chí đôi khi còn gây khó khăn cho thị trường chung.

Không phải vô tình mà trong Nghị quyết số 18 ngày 6/4, Chính phủ đưa ra yêu cầu bảo đảm ổn định, an toàn hệ thống tài chính ngân hàng, coi đây là một trong sáu giải pháp tiên quyết nhằm đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phải kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng; tăng cường kiểm tra, giám sát để đánh giá thực trạng hoạt động của từng tổ chức tín dụng và của toàn bộ hệ thống để có phương án xử lý kịp thời khi cần thiết.

Thống đốc Nguyễn Văn Giàu cho biết tới đây Ngân hàng Nhà nước sẽ xem xét xiết lại quy định thành lập ngân hàng cổ phần, trong đó dự kiến hạ tỷ lệ góp vốn của thể nhân và pháp nhân xuống còn một nửa so với hiện nay, để nâng cao tính đại chúng của ngân hàng, tránh nguy cơ một nhóm nhỏ cổ đông chi phối hoạt động ngân hàng.

Cơ quan này cũng sẽ nâng cao quy định về rủi ro trong hệ thống, đồng thời yêu cầu công khai minh bạch các đánh giá, xếp hạng ngân hàng. Thậm chí, danh sách những ngân hàng thuộc diện phải "bú sữa mẹ" sẽ được công bố ra công chúng nếu họ muốn nhận những đồng vốn cứu trợ từ Nhà nước.


(Theo Vnexpress)

17 Tuổi Lập Website Trị Giá 50 Triệu Đô La

Chỉ sau 3 ngày miệt mài làm việc, Andrey Ternovkiy, 17 tuổi đã thiết kế xong trang web Chatroulette.com và chỉ để chơi. Ai ngờ, số lượng người truy cập ngày càng đông và đến giờ nó được định giá gần 50 triệu đô la.

Mới cách đây ít lâu, Andrey Ternovskiy học sinh một trường trung học phổ thông ở Matxcơva,chẳng được ai biết đến ngoại trừ cha mẹ và người thân của em. Em say mê tiếng Anh, tiếng Trung và Internet.

Andrey tại “tổng hành dinh” của Chatroulette

Andrey tại “tổng hành dinh” của Chatroulette

Nhưng em chẳng bao giờ nghĩ đến việc mình sẽ trở thành một nhân vật nổi tiếng, nhất là lại với tư cách một nhà lập trình. Vậy mà điều này đã trở thành hiện thực sau khi em đột nhiên nảy ra ý tưởng lập trang web Chatroulette.com chuyên dành cho những ai muốn tìm bạn ngẫu nhiên trên mạng để trực tiếp trò chuyện, trao đổi bằng webcam.

Ngay sau khi nẩy ra ý tưởng nói trên, Ternovskiy lập tức bắt tay thực hiện ý định của mình. Chỉ mất ba ngày miệt mài làm việc, em đã thiết kế xong Chatroulette.com và website mới đã ra đời vào mùa thu năm ngoái. Mục đích ban đầu của em rất đơn giản: phục vụ bạn bè và người thân.

Và quả đúng như vậy, trong thời gian đầu, trang web của em chỉ có trên dưới hai chục người truy nhập. Nhưng sau khi được nhiều người tham gia các diễn đàn khác nhau trên mạng trích dẫn, số người ghé thăm Chatroulette.com không ngừng tăng lên.

Chỉ sau vài tháng, tiếng tăm nhà lập trình trẻ tuổi đã lan đến tận nước Mỹ và được báo chí Mỹ để mắt tới. Sau khi tờ The New York Times tổ chức phỏng vấn Ternovskiy, số người truy nhập trang Chatroulette.com tăng vọt và giờ đây đã lên tới khoảng gần 2 triệu người mỗi ngày.

Nguyên tắc hoạt động của Chatroulette.com rất đơn giản. Để trở thành người tham gia trang này, bạn chỉ cần mở trang web và bật webcam. Sau khi ấn New Game (Trò chơi mới), máy tính sẽ kết nối bạn với một đối tác ngẫu nhiên nào đó để trò chuyện.

Người trò chuyện với bạn có thể là người đang ngồi ngay trước mặt bạn mà cũng có thể là một người bạn chưa hề quen biết ở lục dịa khác. Nếu thấy đối tác đó không thích hợp để trò chuyện, bạn sẽ dùng lệnh Next và máy lập tức sẽ kết nối bạn với một đối tượng ngẫu nhiên khác.

Website Chatroulette.com được nhiều chuyên gia đánh giá là có triển vọng lớn. Tuy mới chỉ ở mức độ như hiện nay, nó đã được định giá là hơn 30 triệu euro (tương đương gần 50 triệu USD).

Nhưng Andrey Ternovskiy từ chối mọi đề nghị mua lại. Giờ đây em đang bận bịu với hai việc: tìm người tài trợ và nghiên cứu những chức năng mới cho đứa con đẻ của mình.


(Nguồn: http://ethongtin.net)

Nâng cao vị thế kiểm toán

Lớp cập nhật kiến thức kiểm toán viên tại Hà Nội, do VACPA tổ chức.

Vài năm gần đây, hoạt động kiểm toán trở nên rất sôi động. Cùng với sự bùng nổ về số lượng công ty và nhân lực thì vấn đề đạo đức nghề nghiệp của ngành này đang được đặt ra một cách rất nghiêm túc.

Báo cáo của Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) cho thấy, năm 2009, cả nước có hơn 143 công ty kiểm toán đang hoạt động ở Việt Nam với tổng số lượng nhân viên toàn ngành tới 8 nghìn người, trong đó có 1.116 người được cấp chứng chỉ kiểm toán viên.

Với số lượng khách hàng khoảng 26 nghìn đơn vị đã mang về một khoản doanh thu khá lớn trong toàn ngành khoảng 2.200 tỷ đồng. Như vậy, có thể thấy tổng doanh thu mỗi kiểm toán viên được cấp chứng chỉ hành nghề mang lại 1,96 tỷ đồng/năm. Còn nếu chia cho số lượng nhân viên làm trong ngành kiểm toán thì doanh thu đạt 275 triệu đồng/người/năm.

Những áp lực từ doanh thu

Mặc dù số lượng công ty kiểm toán không phải ít nhưng miếng bánh thị phần hiện đang nghiêng phần nhiều về nhóm “4 đại gia”, bao gồm: Deloitte Việt Nam, Ernst & Young Việt Nam, Price Waterhouse Coopers, KPMG Việt Nam, với doanh thu chiếm gần 55% tổng doanh thu toàn ngành, tương đương 1.196 tỷ đồng.

Trong khi đó, số lượng nhân viên được cấp chứng chỉ kiểm toán viên của “4 đại gia” chỉ 217 người (bằng 19,5% tổng lượng nhân viên được cấp chứng chỉ kiểm toán viên) và số lượng khách hàng là 4.155 đơn vị (chiếm hơn 16% tổng số khách hàng).

Nếu như doanh thu của các công ty trong nhóm này đều trên 250 tỷ đồng, thì những công ty xếp thứ 5 trở xuống chỉ đạt dưới 90 tỷ đồng. Bên cạnh đó, những công ty có doanh thu vài tỷ đồng cũng không phải là hiếm.

Theo đánh giá của ông Bùi Văn Mai, Phó chủ tịch Thường trực kiêm Tổng thư ký VACPA, để công ty kiểm toán có lãi, mỗi một kiểm toán viên được cấp chứng chỉ hành nghề phải mang về nguồn doanh thu khoảng 200 triệu đồng/năm.

Doanh số khoán trên mỗi kiểm toán viên cũng là áp lực lớn. Ngoài việc nhờ thương hiệu công ty lớn nên khách hàng tự tìm về thì bên cạnh đó, những công ty chưa có thương hiệu phải đôn đáo tìm khách hàng, cạnh tranh và bản thân từng nhân viên kiểm toán cũng phải tận dụng mọi mối quan hệ cá nhân để tìm khách hàng.

Cũng theo ông Mai, các kiểm toán viên được cấp chứng chỉ hành nghề không chỉ đóng vai trò quan trọng đối với chính công ty kiểm toán về nguồn thu nhập, mà quan trọng hơn, họ đang đóng vai trò then chốt để có được những bản báo cáo tài chính của doanh nghiệp đáng tin cậy đối với công ty, đối với cổ đông, cơ quan thuế và nhà đầu tư.

Do đó, việc nâng cao trình độ, nâng cao đạo đức nghề nghiệp đối với các kiểm toán viên là nhiệm vụ quan trọng của mỗi công ty kiểm toán nói riêng và VACPA nói chung. Đối với những người hành nghề kiểm toán và các công ty kiểm toán độc lập thì một trong các yêu cầu cao nhất là độc lập, khách quan, tức không bị lợi ích chi phối, không chịu áp lực từ cấp trên, không chịu ràng buộc của khách hàng.

Nâng cao trình độ và đạo đức nghề nghiệp

Bà Hà Thị Thu Thanh, Tổng giám đốc Deloitte Việt Nam nói: “Hội nghề nghiệp đóng vai trò quan trọng trực tiếp đối với việc nâng cao chất lượng dịch vụ, uy tín, danh tiếng của kiểm toán viên và gián tiếp góp phần vào sự công khai, minh bạch đối với các thông tin tài chính của các doanh nghiệp”.

Ở Việt Nam, nghề kiểm toán đã có từ năm 1991, trong 14 năm đầu, việc quản lý, giám sát các hoạt động của kiểm toán viên đều do Bộ Tài chính thực hiện. Tuy nhiên do yêu cầu của thực tiễn, năm 2005, Bộ Tài chính chuyển giao chức năng quản lý hành nghề kiểm toán cho VACPA.

Hiện VACPA có khoảng 1.000 hội viên, hầu hết trong đó đang làm việc tại các công ty kiểm toán, chỉ có 15 hội viên làm việc ở các tổ chức khác. Trong 5 năm qua, VACPA thực hiện chức năng, đào tạo, cập nhật kiến thức chuyên môn; kiểm soát chất lượng dịch vụ, đạo đức nghề nghiệp; tư vấn trao đổi vướng mắc, kinh nghiệm góp phần nâng cao chất lượng và uy tín hội viên, duy trì và phát triển nghề nghiệp kế toán, kiểm toán Việt Nam.

Trong năm 2009, VACPA đã kiểm tra và phát hiện ra 8 trường hợp có sai phạm trong đăng ký hành nghề, trong đó chủ yếu là sai phạm liên quan đến việc cho thuê chứng chỉ hành nghề. VACPA đã báo cáo lên Bộ Tài chính để Bộ này ra quyết định phạt 1 năm không được hành nghề. Khi có những phát sinh liên quan đến đạo đức nghề nghiệp, VACPA đều có chế tài đối với hội viên, gồm: khiển trách, cảnh cáo, hoặc xóa tên hội viên. Tuy nhiên, trường hợp VACPA phát hiện ra sai phạm ngoài chức năng thì Hội sẽ báo cáo lên Bộ Tài chính để có hình thức xử phạt.

Theo kế hoạch của VACPA, ngày 15/4, Hội sẽ đưa ra chương trình hoạt động trong 10 năm tới. Cụ thể, VACPA tạo cơ chế, chính sách thu hút thêm các cán bộ chuyên trách có trình độ chuyên môn cao để điều hành hoạt động Hội.

Tiếp theo, xây dựng và hoàn thiện quy chế hoạt động chặt chẽ hơn theo kinh nghiệm của các tổ chức nghề nghiệp quốc tế.Hội cũng dự định thành lập trung tâm đào tạo và tư vấn riêng để tạo điều kiện nâng cấp chuyên môn cho hội viên và hội viên tiềm năng.

Đồng thời, mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động của Ban kiểm soát để không chỉ kiểm tra phát hiện sai sót mà chủ yếu sẽ là hỗ trợ hội viên chấn chỉnh, sửa chữa sai sót.

(Theo Vneconomy)

USD tự do thấp hơn giá ngân hàng

USD giảm sâu hơn. Ảnh:VNN.
Giá USD tiếp tục giảm trong ngày 14/4. Lần đầu tiên, giá USD ngoài thị trường tự do thấp hơn cả giá ngân hàng. Giá USD tự do trên thị trường hiện là 19.010 - 19.040 đồng/USD, giảm10 - 20 đồng so với ngày hôm qua.

Trong khi đó, Ngân hàng Nhà nước vẫn tiếp tục giữ tỷ giá liên ngân hàng ở mức 18.544 đồng/USD. Tại các ngân hàng thương mại, giá USD được niêm yết ở mức 18.980 - 19.050 đồng/USD, giảm 10 đồng so với ngày 13/4.

Với mức giá trên, giá bán ra của ngân hàng thương mại đã cao hơn cả giá trên thị trường tự do. Đây có thể là lần đầu tiên diễn ra hiện tượng này.

Điều này cho thấy, tình hình cung cầu USD đã được giải quyết thỏa đáng. Chính sách neo tỷ giá ở mức cao để đưa hai loại tỷ giá trong và ngoài ngân hàng về gần nhau đã được thực hiện.

(Theo VietnamNet)

Lấp “lỗ hổng” pháp lý trên thị trường chứng khoán

Sau 3 năm thực hiện Luật Chứng khoán, mức vốn hoá của thị trường chứng khoán Việt Nam tăng 2,6 lần.
Sau 3 năm được thi hành, Luật Chứng khoán (LCK) đã bộc lộ một số hạn chế buộc Bộ Tài chính phải xây dựng dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật này.

Ông Trần Xuân Hà, Thứ trưởng Bộ Tài chính cho biết, sau 3 năm thực hiện LCK, thị trường chứng khoán khoán (TTCK) đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận như mức vốn hoá của thị trường tăng 2,6 lần; khối lượng giao dịch tăng 14 lần... Đặc biệt, trong 3 năm qua, tổng khối lượng vốn huy động qua TTCK phục vụ cho đầu tư phát triển lên tới 200.000 tỷ đồng, luồng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài được đổ vào Việt Nam thông qua TTCK tăng từ mức 4,5 tỷ USD lên trên 10 tỷ USD.

Trước sự phát triển mạnh mẽ của TTCK, nhiều quy định trong LCK liên quan tới phát hành cổ phiếu riêng lẻ, phát hành cổ phiếu ra công chúng, cổ phần hoá gắn với TTCK... đã bộc lộ nhiều hạn chế, cần phải được điều chỉnh bằng các văn bản pháp luật chặt chẽ hơn.

Đây là một trong những lý do cơ bản khiến Bộ Tài chính phải đề nghị Chính phủ trình Quốc hội Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung LCK.

Ngoài ra, việc sửa đổi, bổ sung LCK còn phải hướng tới thu hẹp thị trường tự do, lành mạnh hoá và nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường, góp phần thúc đẩy thị trường vận hành công khai, minh bạch. Bộ trưởng Bộ Tài chính, ông Vũ Văn Ninh thường xuyên yêu cầu các doanh nghiệp nhà nước khi tiến hành cổ phần hoá phải gắn với việc niêm yết hoặc giao dịch cổ phiếu trên TTCK có tổ chức. Tuy nhiên, trên thực tế, do LCK hiện hành không có quy định bắt buộc, nên hầu hết doanh nghiệp (DN) sau khi cổ phần hoá không thực hiện yêu cầu này. Điều này đã góp phần thúc đẩy giao dịch trên thị trường tự do, vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro, chứa đựng nhiều nguy cơ lừa đảo do nhà đầu tư không có thông tin đầy đủ, thông tin không chính thống, thiếu minh bạch... và đặc biệt không chịu sự quản lý của cơ quan quản lý nhà nước.

Để lấp “lỗ hổng” pháp lý này, Bộ Tài chính dự định sẽ nâng điều kiện phát hành cổ phiếu ra công chúng (phát hành cổ phiếu cho trên 100 nhà đầu tư, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp), ngoài việc đáp ứng đủ vốn điều lệ từ 10 tỷ đồng trở lên; hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm chào bán phải có lãi..., còn phải có kế hoạch và cam kết đưa cổ phiếu giao dịch tại TTCK có tổ chức trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày kết thúc đợt chào bán cổ phiếu ra công chúng.

Một trong những “lỗ hổng” nữa của LCK hiện hành là không có quy định nào về việc phát hành cổ phiếu riêng lẻ (phát hành cho dưới 100 nhà đầu tư). Tận dụng “lỗ hổng” này, năm 2008 và 2009, nhiều DN thay vì phát hành cổ phiếu ra công chúng, đã tiến hành nhiều đợt phát hành cổ phiếu riêng lẻ và phân phối cổ phiếu ra đại chúng thông qua việc mua đi, bán lại quyền mua, không bảo đảm lợi ích của các cổ đông hiện hữu.

Để bịt “lỗ hổng” này, đầu năm 2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/2010/NĐ-CP hướng dẫn việc chào bán riêng lẻ. Theo nghị định này, tổ chức phát hành cổ phiếu riêng lẻ phải có quyết định của đại hội đồng cổ đông, HĐQT, hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty, đại hội nhà đầu tư thông qua phương án chào bán và sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán. Việc chuyển nhượng cổ phần phát hành riêng lẻ bị hạn chế tối thiểu 1 năm, kể từ ngày hoàn thành đợt phát hành. Các đợt phát hành riêng lẻ phải cách nhau ít nhất 6 tháng.

Ông Nguyễn Băng Tâm, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Sản xuất - Kinh doanh xuất nhập khẩu Bình Thạnh, Phó chủ tịch Câu lạc bộ Các DN niêm yết nhận xét, trong 3 quý đầu năm 2009, rất nhiều DN đại chúng đã thực hiện phát hành cổ phiếu tăng vốn, chia tách cổ phiếu thưởng với các tiêu chí phát hành theo quy định tại LCK là cần có vốn điều lệ 10 tỷ đồng và hoạt động kinh doanh có lãi, không có lỗ lũy kế, có phương án sử dụng vốn. Tuy nhiên, quy định này quá đơn giản, bởi nếu chỉ yêu cầu DN có lãi không là chưa đủ, phải xem lãi ở mức nào mới được phát hành, phương án sử dụng vốn từ đợt phát hành ra sao...

“Tôi hy vọng, LCK sửa đổi lần này sẽ có các quy định chặt chẽ hơn về việc giám sát phương án sử dụng vốn của DN. Một thực tế hiện nay là một số DN phát hành cổ phiếu huy động vốn, nhưng 2 tháng sau lại công bố mua cổ phiếu quỹ. Thực trạng này khiến nhiều người đặt câu hỏi DN thực sự cần vốn cho phát triển kinh doanh hay vì mục đích khác? Rõ ràng, pháp luật cần có những quy định buộc DN phải thể hiện rõ trách nhiệm với cổ đông khi sử dụng đồng vốn của cổ đông trong các hoạt động kinh doanh tại DN”, ông Tâm nói.

(Theo Đầu Tư)

Nghẽn mạng, ùn tắc khi quyết toán thuế TNCN

Ảnh minh họa.
Phần lớn câu hỏi đặt ra tại cuộc đối thoại giữa Cục Thuế Hà Nội và các doanh nghiệp (DN) trên địa bàn diễn ra vào đầu tuần này liên quan đến thuế thu nhập cá nhân (TNCN). Điều này cho thấy, việc triển khai thuế TNCN vẫn còn vướng mắc.

Theo số liệu của cơ quan thuế, cả nước hiện có hàng trăm ngàn trường hợp bị trùng số chứng minh nhân dân - căn cứ bắt buộc để khai báo hồ sơ thuế. Việc này đang gây nhiều khó khăn không chỉ cho cá nhân thuộc đối tượng phải nộp thuế, mà còn đối với cả DN khi thực hiện khấu trừ thuế TNCN theo luật do không thể làm được mã số thuế (MST) cho cá nhân. “Khi đi làm MST cho người lao động, trong nhiều trường hợp, cơ quan thuế không cấp MST cho cá nhân vì có số chứng minh nhân dân trùng với cá nhân khác. Hệ quả là, không ít cá nhân bị thiệt thòi do không được giảm trừ gia cảnh khi xác định thu nhập chịu thuế”, đại diện Quỹ Tín dụng nhân dân Trung ương cho biết.

Điều đáng nói là, việc nhiều người trùng số chứng minh nhân dân đã được phát hiện từ 1 năm trước, nhưng đến thời điểm này, khi thời hạn cuối cùng để quyết toán thuế TNCN năm 2009 sắp hết (ngày 30/5/2010), mà Bộ Tài chính vẫn chưa có hướng xử lý cụ thể. “Chúng tôi đang kiến nghị Bộ Tài chính, trong phần kê khai MST, cho phép gắn thêm vào số chứng minh thư tên địa phương cư trú của người nộp thuế”, bà Vũ Thị Mai, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế cho biết.

Thực hiện Đề án 30 về đơn giản hoá thủ tục hành chính, ngành thuế kiến nghị xoá bỏ 11 thủ tục, đơn giản hoá khoảng 230 thủ tục trong tổng số trên 330 thủ tục hiện hành. Tuy nhiên, theo phản ánh của nhiều DN, mặc dù Bộ Tài chính đã triển khai cải cách thủ tục hành chính trong việc thực hiện Luật Thuế TNCN, như ban hành Thông tư 02/2010/TT-BTC về sửa đổi, bổ sung Thông tư 84/2008/TT-BTC, song nhiều thủ tục hiện hành vẫn còn rất phiền hà đối với người nộp thuế.

Thực tế cho thấy, kể từ đầu tháng 3 đến nay (thời điểm cá nhân bắt đầu nộp quyết toán thuế TNCN năm 2009), chi cục thuế tại nhiều địa phương, đặc biệt là Hà Nội và TP.HCM, luôn diễn ra cảnh của hàng trăm người xếp hàng, chen lấn để được quyết toán thuế. Các webisite của cơ quan thuế, đặc biệt là wesite tncnonline.com.vn của Tổng cục Thuế, luôn trong tình trạng nghẽn mạng. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, theo đại diện của nhiều DN, là do các quy định hiện hành bắt buộc cá nhân có thu nhập nhiều nơi phải trực tiếp quyết toán thuế, chứ không thể uỷ quyền cho kế toán DN nơi mình làm việc quyết toán thay.

Ông Ngô Văn Quang, Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế TNCN (Tổng cục Thuế) thừa nhận, tình trạng nghẽn mạng và ùn tắc tại các cơ quan thuế trong thời điểm quyết toán thuế TNCN một phần là do các quy định hiện hành chưa cho phép uỷ quyền quyết toán thuế TNCN đối với cá nhân có thu nhập từ hai nơi trở lên.

Ông Quang cho biết, Tổng cục Thuế sẽ xây dựng cơ chế cho phép cá nhân được ủy quyền cho kế toán nơi họ có thu nhập thường xuyên thực hiện các báo cáo quyết toán thuế, nhưng cá nhân vẫn phải trực tiếp thực hiện quyết toán thuế tại cơ quan thuế. Điều này có nghĩa là, tình trạng “tranh nộp báo cáo quyết toán thuế TNCN” vẫn chưa có hướng xử lý triệt để. Như vậy, đến ngày 30/5, những cá nhân chưa thể thực hiện quyết toán thuế TNCN năm 2009 mà không phải do lỗi của họ, thì vẫn bị cơ quan thuế phạt chậm nộp thuế năm 2009.

Một khúc mắc khác liên quan đến thuế TNCN đối với chuyển nhượng bất động sản. Theo quy định hiện hành, cá nhân chuyển nhượng bất động sản nếu không có lãi (thu nhập) thì không phải nộp thuế TNCN; giá tính thuế xác định trên hợp đồng chuyển nhượng, nhưng nếu giá trên hợp đồng chuyển nhượng thấp hơn giá do UBND cấp tỉnh quy định thì căn cứ vào giá do chính quyền quy định. Quy định như vậy, song không ít cá nhân kinh doanh bất động sản cho biết, nhiều trường hợp chuyển nhượng bất động sản bị thua lỗ mà vẫn phải nộp thuế TNCN, vì giá nhà đất do UBND cấp tỉnh đưa ra năm sau thường cao hơn năm trước.

(Theo Đầu Tư)

Quản lý nhà nước với việc giúp VACPA hướng đến mục tiêu ngang tầm khu vực và quốc tế

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỚI VIỆC GIÚP VACPA HƯỚNG ĐẾN MỤC TIÊU NGANG TẦM KHU VỰC VÀ QUỐC TẾ

TS Hà Thị Ngọc Hà – Phó Vụ trưởng

Vụ Chế độ kế toán và kiểm toán, Bộ Tài chính

TS Hà Thị Ngọc Hà

1/ Hội nghề nghiệp kế toán, kiểm toán trên thế giới:

Trong điều kiện kinh tế thị trường, BCTC của doanh nghiệp phải trung thực, minh bạch và công khai vì liên quan đến lợi ích, nghĩa vụ của nhiều nhà đầu tư. Để góp phần đảm bảo yêu cầu trên, những người hành nghề kế toán, kiểm toán đã lập ra tổ chức nghề nghiệp độc lập để thực hiện trách nhiệm đào tạo, xác nhận năng lực, cung cấp thông tin và quản lý đạo đức nghề nghiệp những người hành nghề này. Nhờ đó uy tín, danh tiếng của những người hành nghề ngày càng được nâng cao, không chỉ được từng nước mà nhiều nước thừa nhận, như Hiệp Hội kế toán công chứng Anh (ACCA) hiện có 131.000 Hội viên, 80 văn phòng đại diện trên 64 nước trên thế giới, đã có văn phòng và 300 hội viên ở Việt Nam; Hội kế toán viên công chứng Australia (CPA A) hiện có 129.000 Hội viên, 10 văn phòng đại diện trên thế giới, có văn phòng và 180 Hội viên ở Việt Nam. Cơ quan Nhà nước nhiều nước trên thế giới đã thừa nhận kết quả hoạt động của các Hội nghề nghiệp này. Tuy nhiên Nhà nước vẫn thực hiện chức năng kiểm soát hoạt động của các Hội nghề nghiệp.

Các Hội nghề nghiệp quốc tế thường được Nhà nước thừa nhận các chức năng, nhiệm vụ sau đây:

- Nghiên cứu, soạn thảo và công bố Chuẩn mực kế toán, Chuẩn mực kiểm toán và Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp; Ban hành tài liệu hướng dẫn thực hiện Chuẩn mực kế toán, Chuẩn mực kiểm toán;

- Tổ chức đào tạo, tổ chức thi và cấp chứng chỉ Hội viên sau 3-5 năm kinh nghiệm thực tế.

- Tổ chức cập nhật kiến thức cho Hội viên; Cung cấp thông tin nghề nghiệp và tư vấn chuyên môn cho Hội viên;

- Kiểm soát chất lượng dịch vụ của Hội viên; Quản lý đạo đức nghề nghiệp và xử lý các sai phạm của Hội viên.

Hội nghề nghiệp ở các nước đang phát triển được Nhà nước giao có sự khác nhau về: (1) Việc công bố các Chuẩn mực kế toán, Chuẩn mực kiểm toán và (2) Việc tổ chức thi và cấp chứng chỉ hành nghề.

Theo thông lệ chung của hầu hết các nước (Nga, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan Macedonia, Hàn Quốc, Ba Lan, Singapore, Pháp…), người hành nghề kế toán, kiểm toán bắt buộc phải là Hội viên của Hội nghề nghiệp; người hành nghề có thể đồng thời là Hội viên của các Hội nghề nghiệp kế toán, kiểm toán khác nhau. Hội viên của Hội nghề nghiệp có thể là cá nhân hoặc có thể là doanh nghiệp kế toán, kiểm toán. Hội viên có thể thực tế hành nghề hoặc không hành nghề kế toán, kiểm toán...

Các qui định liên quan đến mục đích, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Hội nghề nghiệp và tiêu chuẩn, điều kiện của Hội viên nói trên được qui định trong văn bản pháp luật hoặc các hình thức khác, có nước có Luật riêng về Hội nghề nghiệp tự quản; có nước có các chương riêng trong Luật kế toán viên công chứng...

2/ Hội nghề nghiệp về kiểm toán độc lập ở Việt Nam (VACPA)

2.1 Sự cần thiết cấp bách khách quan của việc thành lập:

Trước năm 2005, Bộ Tài chính là cơ quan quản lý nhà nước, trực tiếp thực hiện và quản lý mọi hoạt động liên quan đến nghề nghiệp kế toán, kiểm toán, gồm: Trình và ban hành văn bản qui phạm pháp luật về kiểm toán; Tổ chức thi và cấp chứng chỉ KTV; Đăng ký và quản lý hành nghề; Tổ chức đào tạo, cập nhật kiến thức; Kiểm soát chất lượng hoạt động và xử lý các sai phạm của KTV hành nghề và DNKT.

Năm 2005 Việt Nam đã thành lập Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA). Với mục tiêu hội nhập với các tổ chức Hội nghề nghiệp trong khu vực và thế giới, Hội viên VACPA phải là người có chứng chỉ KTV, đáp ứng các yêu cầu về cập nhật kiến thức, về kiểm soát chất lượng, về năng lực hành nghề, trách nhiệm pháp lý trong các báo cáo kiểm toán và dịch vụ có bảo đảm và yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp tương đương với yêu cầu hội viên là các kế toán viên công chứng của các nước trong khu vực và thế giới.

Năm 2005, xét đến sự cần thiết của công cuộc đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế; xét điều kiện thực tế của các Hội nghề nghiệp kế toán, kiểm toán đã có ở Việt Nam, ngày 14/07/2005 tại Quyết định số 47/2005/QĐ-BTC, Bộ Tài chính đã chuyển giao một số công việc liên quan đến quản lý hành nghề kiểm toán cho VACPA theo lộ trình chuyển giao phù hợp, gồm: (1) Tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ nghề nghiệp cho KTV hành nghề. Thực hiện cập nhật kiến thức cho KTV hành nghề; (2) Quản lý thống nhất danh sách KTV hành nghề, danh sách DNKT; (3) Xem xét điều kiện và công khai danh sách KTV hành nghề, danh sách DNKT đủ điều kiện hành nghề; (4) Thực hiện kiểm tra tuân thủ pháp luật về kiểm toán, chất lượng dịch vụ trong các DNKT. Hàng năm thực hiện tổng kết, đánh giá chất lượng dịch vụ và hoạt động nghề nghiệp của KTV hành nghề, hoạt động kiểm toán và báo cáo với Bộ Tài chính; (5) Các việc khác như: Tổ chức ôn thi và tham gia tổ chức thi KTV.

Trong năm 2008, Bộ Tài chính tiếp tục uỷ quyền cho VACPA thực hiện việc nghiên cứu, soạn thảo, cập nhật Hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam phù hợp với Chuẩn mực kiểm toán Quốc tế (Quyết định số 1053/QĐ-BTC ngày 13/5/2008).

2.2 Kết quả thực hiện các công việc do Bộ Tài chính chuyển giao cho VACPA

(1) Việc chuyển giao công việc quản lý hành nghề kiểm toán thuộc trách nhiệm của Bộ Tài chính cho VACPA là kịp thời và phù hợp với thông lệ Quốc tế:

Hoạt động kiểm toán đòi hỏi sự độc lập, trung thực, minh bạch, chịu sự kiểm soát của cả xã hội. Do đó, cần có sự tham gia của các tổ chức nghề nghiệp chuyên nghiệp nhằm giảm nhẹ thủ tục hành chính và sự can thiệp trực tiếp của cơ quan nhà nước vào doanh nghiệp. Các công việc Bộ Tài chính đã chuyển giao cho VACPA thực hiện từ năm 2005 và thực tế qua đánh giá đã chứng minh việc chuyển giao này là hoàn toàn hợp lý, phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội, đúng với chủ trương đổi mới, mở cửa, hội nhập của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết Đại hội Đảng IX nêu rõ: “cần mở rộng hơn các hình thức tập hợp nhân dân, tham gia các tổ chức xã hội, các hội nghề nghiệp…” và “hỗ trợ, khuyến khích các tổ chức hoạt động không vì mục đích lợi nhuận mà vì nhu cầu, lợi ích của nhân dân. Những tổ chức này được Nhà nước uỷ quyền thực hiện một số nhiệm vụ, cung cấp một số dịch vụ công với sự giám sát của cộng đồng. Thông qua đó, nhà nước có thể tập trung sức lực để thực hiện những nhiệm vụ quan trọng”.

Công việc quản lý, cập nhật kiến thức và kiểm soát người hành nghề kiểm toán có khối lượng ngày càng lớn, càng phức tạp, đòi hỏi cao, sát thực tế hơn, phù hợp với thông lệ quốc tế… trong khi cơ quan nhà nước không thể tăng biên chế bộ máy hành chính, năng lực thực hiện cũng bị hạn chế do cán bộ nhà nước không có chứng chỉ hành nghề và thực tế không hành nghề nên không nhất thiết cứ phải làm các công việc như đã chuyển giao, nếu không sẽ làm hạn chế sự phát triển nghề nghiệp này.

(2) Công việc chuyển giao trong 5 năm qua đã đạt hiệu quả tốt:

Về cơ bản VACPA đã và đang triển khai thực hiện tốt, có hiệu quả các công việc do Bộ Tài chính chuyển giao.Trong 5 năm qua, để thực hiện được các công việc Bộ Tài chính chuyển giao, VACPA đã hình thành được tổ chức bộ máy với các qui chế hoạt động theo mô hình của tổ chức nghề nghiệp quốc tế. Bước đầu VACPA đã góp phần nâng cao chất lượng và uy tín KTV hành nghề thông qua hoạt động đào tạo, cập nhật kiến thức, tư vấn chuyên môn, kiểm soát chất lượng, quản lý hành nghề và quan hệ quốc tế. Xã hội đã biết đến VACPA và tổ chức quốc tế bước đầu đã quan tâm đến hoạt động của VACPA.

3/ Bài học kinh nghiệm từ hoạt động của VACPA cho việc soạn thảo dự án Luật Kiểm toán độc lập

(1). Để hội nhập với quốc tế và các nước trong khu vực, các nội dung liên quan đến Hội nghề nghiệp về kiểm toán trong hoạt động kiểm toán độc lập cần phải được luật hoá làm cơ sở pháp lý để chuyển giao dần các chức năng quản lý hành nghề kiểm toán từ cơ quan nhà nước sang cho Hội nghề nghiệp, đó cũng chính là việc thực hiện các cam kết của Việt Nam trong tiến trình hội nhập.

Theo thông lệ quốc tế, Hội nghề nghiệp cần được quy định rõ vai trò, vị trí và được Nhà nước thừa nhận, thuận lợi cho việc hội nhập, thừa nhận lẫn nhau trong lĩnh vực kiểm toán. Sự tồn tại của Hội nghề nghiệp là cần thiết khách quan nhằm góp phần phát triển hoạt động nghề nghiệp. Hiện nay hơn 95% KTV hành nghề đã tham gia hội viên của VACPA. Đây là Tổ chức nghề nghiệp chuyên nghiệp, độc lập có đặc thù riêng (như hành nghề luật sư) vì có vai trò rõ ràng trong việc phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước kiểm tra, giám sát hành nghề của các KTV hành nghề và DNKT.

Ở Việt Nam, một số nghề nghiệp khác cũng đã có Hội và được xác định là Tổ chức xã hội - nghề nghiệp, được quy định một chương riêng trong Luật như Luật Luật sư, Hội hành nghề y dược tư nhân (trong Pháp lệnh hành nghề y dược tư nhân), giúp cho Hội định hướng phát triển rõ ràng, mạnh mẽ sau khi có Luật này.

(2). Các nội dung sau cần được nghiên cứu, xem xét để qui định trong Luật Kiểm toán độc lập:

Thứ nhất, nguyên tắc quản lý hoạt động kiểm toán độc lập: cần kết hợp giữa quản lý Nhà nước với phát huy vai trò tự quản được chịu trách nhiệm của Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán, bảo đảm việc tuân thủ pháp luật, chuẩn mực kiểm toán, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của KTV hành nghề và DNKT.

Những năm qua VACPA đã hỗ trợ đắc lực và có hiệu quả cho cơ quan Nhà nước trong việc quản lý hành nghề kiểm toán. Tuy nhiên nguyên tắc kết hợp giữa quản lý Nhà nước với tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán chưa được quy định chính thức trong văn bản pháp luật về kiểm toán độc lập, mặt khác bản thân VACPA còn có khó khăn về nguồn nhân lực, cũng như tổ chức hoạt động, chưa thực sự chuyên nghiệp nên cơ quan nhà nước chưa thể chuyển giao nhiều hơn các phần việc liên quan đến việc quản lý hành nghề kiểm toán cho Hội như thông lệ của hầu hết các nước. Theo đó công tác quản lý hành nghề kiểm toán hiện nay vẫn còn nặng tính chất hành chính nhà nước.

Thứ hai, qui định về Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán, gồm các điểm sau:

(a). Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán là tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật về Hội để tập hợp hội viên là KTV, KTV hành nghề và DNKT trong cả nước.

(b). Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán được thực hiện các công việc sau:

- Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, tư vấn và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho các hội viên;

- Kiểm tra, kiểm soát chất lượng hoạt động của hội viên; giám sát và giúp đỡ hội viên hành nghề theo đúng quy định của pháp luật; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên;

- Xây dựng và công bố chuẩn mực kiểm toán sau khi có ý kiến chấp thuận của Bộ Tài chính;

- Tham gia với Bộ Tài chính tổ chức thi KTV hành nghề;

- Tham gia xây dựng văn bản pháp luật và kiến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước về những vấn đề có liên quan đến hoạt động kiểm toán độc lập.

(c). Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán khi thực hiện các hoạt động của Hội có trách nhiệm tuân thủ các quy định pháp luật về kiểm toán độc lập và các văn bản pháp luật có liên quan.

Thứ ba, qui định trách nhiệm của Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán như sau:

- Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán thực hiện tự quản KTV hành nghề, DNKT và hoạt động hành nghề kiểm toán theo quy định của Luật Kiểm toán độc lập và Điều lệ của mình;

- Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán phối hợp với cơ quan quản lý Nhà nước trong việc quản lý KTV hành nghề và hoạt động hành nghề kiểm toán theo quy định của pháp luật và của Bộ Tài chính.

Thứ tư, qui định điều kiện KTV hành nghề phải là hội viên tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán.

Việc quy định KTV hành nghề phải là hội viên tổ chức nghề nghiệp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra chất lượng kiểm toán viên. Tổ chức nghề nghiệp là đơn vị kiểm tra, giám sát việc tuân thủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán của các KTV hành nghề. Đây là tiêu chí quan trọng để KTV hành nghề tuân thủ pháp luật, mặt khác tạo điều kiện cho tổ chức nghề nghiệp phát huy vai trò kiểm tra, giám sát. Người hành nghề kiểm toán ở hầu hết các nước cũng đều phải là hội viên của một trong các tổ chức nghề nghiệp được Nhà nước thừa nhận.

Để có thể đưa được các quy định nói trên vào Luật kiểm toán độc lập, thực tế cũng là nhờ một phần lớn vào những gì VACPA đã làm được trong 5 năm qua, giúp cho cơ quan Nhà nước, các chuyên gia pháp luật có được hình ảnh thực tiễn của Việt Nam, có sức thuyết phục về tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán.

Kiểm toán là một loại hình dịch vụ pháp lý phổ biến và quan trọng ở mọi quốc gia.Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế tất yếu sẽ dẫn đến sự hình thành thị trường thống nhất về dịch vụ kiểm toán, trước hết là quốc gia, tiếp theo là khu vực, sau đó là toàn cầu. Trong bối cảnh đó, việc đẩy nhanh sự phát triển, nâng cao trình độ nghề nghiệp và đảm bảo chất lượng dịch vụ kiểm toán tiếp cận và ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới là nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với mọi quốc gia đang phát triển. Trong sự nghiệp quan trọng đó, vai trò của Hội nghề nghiệp là rất lớn và cần được Nhà nước quan tâm đặc biệt. Vì vậy việc luật hoá các nội dung liên quan đến Hội nghề nghiệp về kiểm toán như nêu trên sẽ xác định vai trò, vị trí rõ ràng được Nhà nước thừa nhận VACPA trong việc tham gia quản lý hoạt động nghề nghiệp này phù hợp với thông lệ Quốc tế, hướng đến mục tiêu được thừa nhận về dịch vụ kiểm toán Việt Nam. Từ đó VACPA phải duy trì và phát triển mạnh mẽ hơn, phải thực sự là tổ chức độc lập và tự quản, mang tính nghề nghiệp cao, phải có uy tín và danh tiếng để thu hút Hội viên đẳng cấp nghề nghiệp cao hướng đến mục tiêu ngang tầm khu vực và quốc tế./.

(Theo VACPA)

Để VACPA trở thành hội nghề nghiệp chuyên nghiệp, độc lập được khu vực và quốc tế thừa nhận

ĐỂ VACPA TRỞ THÀNH HỘI NGHỀ NGHIỆP CHUYÊN NGHIỆP, ĐỘC LẬP ĐƯỢC KHU VỰC VÀ QUỐC TẾ THỪA NHẬN

Bùi Văn Mai – Phó Chủ tịch thường trực

kiêm Tổng thư ký VACPA

Ông Bùi Văn Mai

Phó Chủ tịch thường trực

kiêm Tổng thư ký VACPA

C

ùng với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, các Hệ thống kiểm toán Việt Nam đã hình thành và phát triển khá



toàn diện và chiếm vị thế ngày càng nổi trội, đóng góp to lớn cho công cuộc đổi mới hiệu quả nền kinh tế đất nước. Đến nay, Kiểm toán Nhà nước kỷ niệm 16 năm, Kiểm toán độc lập vừa tròn 19 năm và kiểm toán nội bộ ra đời 13 năm. Ba hệ thống kiểm toán Việt Nam hoạt động với 3 vị thế khác nhau nhưng cùng chung một mục đích là tạo lập ra hệ thống thông tin kinh tế, tài chính trung thực, khách quan phục vụ yêu cầu quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp, tổ chức và cả xã hội.

Sau 19 năm thành lập và phát triển, Hệ thống kiểm toán độc lập đã xác định rõ mục tiêu phấn đấu trở thành nghề nghiệp chuyên nghiệp, độc lập, được khu vực và quốc tế thừa nhận.

Mặc dù văn bản pháp luật cao chưa quy định rõ, nhưng Bộ Tài chính, với chức năng là cơ quan quản lý Nhà nước về lĩnh vực kiểm toán độc lập đã nhận thức và hành động trong thực tế là năm 2005 đã chuyển giao dần, theo thông lệ quốc tế, một số công việc quản lý hành nghề kiểm toán độc lập cho một tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán mới được thành lập nhưng đã có sự chuẩn bị chu đáo, nhận thức đúng đắn, rõ ràng con đường phát triển và thực tế hành động đã khẳng định sự đúng đắn từng ngày. Đó là Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) đang trên đường phấn đấu trở thành Hội nghề nghiệp chuyên nghiệp, độc lập được khu vực và quốc tế thừa nhận.

Để làm được điều đó, một mặt cơ quan Nhà nước phải xác lập rõ vị thế của VACPA trong cơ chế pháp luật, có thể không giao toàn bộ quyền cho VACPA như một Hội nghề nghiệp quốc tế được thành lập như một doanh nghiệp, tham gia cạnh tranh trong sự hợp tác với cơ quan Nhà nước để nâng cao chất lượng dịch vụ. Sau những cuộc khủng hoảng tài chính hơn 10 năm trước và hiện nay, thế giới có xu hướng thu bớt một số chức năng của Hội nghề nghiệp về cơ quan Nhà nước (chủ yếu chức năng công bố chuẩn mực kế toán, kiểm toán và kiểm soát chất lượng dịch vụ...). Còn Việt Nam từ xu hướng tập trung toàn bộ quyền lực quản lý trong bộ máy hành chính Nhà nước thì tất yếu phải chuyển giao từng bước, một phần công việc hướng dẫn chuyên môn, quản lý, kiểm soát trực tiếp người hành nghề đang ngày càng đông đảo và yêu cầu chuyên môn cao mà bộ máy hành chính Nhà nước khó thỏa mãn được.

Để trở thành tổ chức nghề nghiệp chuyên nghiệp, độc lập được khu vực và quốc tế thừa nhận, Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) phải xác lập được rõ ràng mục tiêu hoạt động, định hướng phát triển, cách thức tổ chức và hàng loạt biện

pháp hành động theo một lộ trình định sẵn; Phải đóng góp thực sự cho mục tiêu nâng cao chất lượng thông tin kinh tế, tài chính trung thực, công khai, minh bạch... góp phần hữu hiệu bảo vệ lợi ích cộng đồng và xã hội.

Địa vị pháp lý và năng lực hoạt động của VACPA không thể chủ quan định đoạt mà tác động qua lại. Một khi đã nhận thấy khả năng tiềm tàng, định hướng phát triển rõ ràng của Hội thì cơ quan Nhà nước mới yên tâm, tin tưởng chuyển giao nhiều chức năng hoạt động hơn; và ngược lại cơ quan Nhà nước cũng cần mạnh dạn chuyển giao bằng một lộ trình rõ ràng, điều kiện cụ thể thì VACPA mới có đích phấn đấu. Quan hệ tương tác, qua lại đó chính là chủ trương xã hội hóa, là tính chất thị trường của kinh tế thị trường mà Nhà nước ta đang hướng đến.

Để làm những điều đó, ngay từ khi thành lập, VACPA đã, đang và sẽ tiếp tục hành động như sau:

* Phương châm hoạt động:

Phương châm hoạt động là yếu tố quyết định của một tổ chức. Nó chi phối mô hình tổ chức, việc lựa chọn con người và kế hoạch hành động. Phương châm hoạt động của VACPA cô đọng trong 2 cụm từ ngắn gọn:

VACPA – GIA TĂNG GIÁ TRỊ HỘI VIÊN

VACPA – ĐỘC LẬP, TRUNG THỰC, MINH BẠCH.

VACPA xác định: VACPA là Hội nghề nghiệp chuyên nghiệp, độc lập của những người có chứng chỉ KTV. Do đó việc thành lập Hội và mọi hoạt động của Hội trước hết và tất là vì lợi ích của Hội viên. Hội viên là tài sản của Hội. Uy tín, danh tiếng, địa vị của Hội viên trong xã hội khẳng định uy tín, danh tiếng và địa vị của VACPA trong xã hội. Hoạt động nghề nghiệp của Hội viên chính là hoạt động gián tiếp của Hội. Do đó mọi việc làm, chương trình hành động của Hội không có mục đích nào khác là làm gia tăng ngày càng cao, càng vững chắc chất lượng và giá trị của Hội viên. Mỗi kiểm toán viên – Hội viên VACPA đều có đều có giá trị thị trường. Bằng các hoạt động đào tạo, cập nhật kiến thức hàng năm ngày càng thiết thực, bổ ích về nội dung, hấp dẫn về hình thức là góp phần nâng cao nhận thức chuyên môn, kinh nghiệm suốt đời cho Hội viên. Việc cung cấp dịch vụ tư vấn, giải đáp chuyên môn kịp thời, chất lượng cũng làm gia tăng trình độ cho Hội viên. Quản lý danh sách Hội viên chặt chẽ, quản lý và xử lý các vi phạm đạo đức hành nghề, tổ chức các hoạt động ngoại khóa và đặc biệt là kiểm soát chất lượng dịch vụ hàng năm... là những việc chủ chốt của VACPA cũng chính là góp phần nâng cao uy tín, danh tiếng của Hội viên, là làm gia tăng giá trị thị trường của Hội viên. Một khi mọi Kiểm toán viên đều trở thành hội viên và tự hào về điều đó. Một khi các doanh nghiệp và xã hội coi trọng ý kiến và chữ ký của kiểm toán viên – hội viên VACPA... chính là khi VACPA đạt được phương châm hoạt động này. Tuy nhiên gia tăng giá trị hội viên chỉ là phương châm hoạt động trực tiếp của VACPA. Phương châm “VACPA Độc lập – Trung thực – Minh bạch”

mới là phương châm hoạt động chủ yếu, cốt lõi, sâu sa, bản chất, vì lợi ích quốc gia lợi ích, xã hội và quốc tế của VACPA.

Nghề nghiệp của các kiểm toán viên độc lập chủ yếu là thông qua hoạt động tư vấn và kiểm toán để đưa ra ý kiến một cách độc lập, khách quan, trung thực nhất về sự trung thực và hợp lý của các số liệu, thông tin tài chính được kiểm toán, giúp cho cơ quan Nhà nước, các doanh nghiệp, tổ chức và mọi cá nhân có cơ sở chắc chắn thực hiện đúng trách nhiệm và được hưởng đầy đủ lợi ích kinh tế của mình.

Trong nền kinh tế thị trường, các nguồn lực kinh tế, tài chính được đầu tư vào sản xuất, kinh doanh ngày càng đa dạng, đan xen lẫn nhau và biến động phong phú, phức tạp. Từng doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân rất khó khăn để kiểm soát các trách nhiệm và lợi ích của mình. Các kiểm toán viên độc lập thông qua hoạt động nghề nghiệp của họ đã thực hiện sự kiểm soát và đưa ra ý kiến xác nhận của mình giúp các tổ chức và cá nhân yên tâm, tin tưởng đưa ra các quyết định kinh tế, thực hiện trách nhiệm và bảo vệ quyền lợi của mình. Vì thế hoạt động kiểm toán độc lập phải thực sự độc lập, trung thực và minh bạch. Hoạt động của VACPA chính là hướng đến sự độc lập, trung thực và minh bạch đó.

Phương châm hoạt động của VACPA không chỉ là khẩu hiệu mà được thể hiện trong các văn bản Điều lệ, phương hướng hoạt động, kế hoạch hàng năm, mô hình tổ chức và hành động hàng ngày của từng thành viên.

* Phát triển tổ chức và hội viên

Trước hết, mô hình tổ chức của VACPA là tổ chức tập trung từ Ban chấp hành Trung ương đến từng Hội viên trong cả nước. VACPA không có hội, chi hội thành viên ở các tỉnh, thành phố, doanh nghiệp... Đó là cách thức tổ chức mang tính chất hành chính, quen thuộc với các tổ chức hội xã hội, khó đem lại lợi ích trực tiếp cho Hội viên. Mọi hoạt động dịch vụ của VACPA đều cung cấp trực tiếp cho Hội viên, bảo đảm sự bình đẳng, đồng đều cho từng Hội viên. VACPA quản lý trực tiếp từng Hội viên làm cho mọi Hội viên đều cảm nhận được sự quan tâm cũng như sự giám sát của Hội. Họ luôn biết và nhớ rằng mình là Hội viên của VACPA.

Mọi hoạt động của VACPA đều tuân thủ quy định của Nhà nước và quy chế hoạt động của Hội thông qua Điều lệ và 10 quy chế hoạt động. Sức mạnh của một tổ chức là có quy chế đầy đủ, rõ ràng, đồng nhất, công khai và chuyên nghiệp.

Lựa chọn và tuyển dụng đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp là điều kiện tiên quyết của một tổ chức. Ban chấp hành VACPA đều là người có chứng chỉ hành nghề và hoạt động chuyên nghiệp nên đồng nhất được hành động vì lợi ích của tổ chức cũng chính là vì lợi ích nghề nghiệp của họ.

Việc phát triển Hội viên vừa là để tăng quy mô, vừa là để tăng đối tượng phục vụ xã hội. Ngoài việc quảng bá Hội viên tiềm năng trong giới sinh viên, hướng nghiệp cho họ trở thành kiểm toán viên, hội viên VACPA. Trong những năm qua, VACPA đã phối hợp chặt chẽ với các tổ chức nghề nghiệp quốc tế như ACCA, CPA Australia, ICPAS Singapore... giúp họ phát triển ở Việt Nam, cũng chính là tạo ra nguồn hội viên cao cấp cho VACPA. Những người có chứng chỉ kiểm toán viên quốc tế sẽ được

VACPA hỗ trợ học thi chuyển đổi lấy chứng chỉ kiểm toán viên Việt Nam. Khi đó sẽ tăng thêm hội viên VACPA có trình độ quốc tế. Người có chứng chỉ kiểm toán viên Việt Nam thì được VACPA hỗ trợ tham gia các kỳ thi ACCA, CPA Australia... để đạt chứng chỉ quốc tế. VACPA đã làm việc với ACCA, CPA Australia... để người có chứng chỉ kiểm toán viên Việt Nam được miễn thi một số môn thi khi dự thi lấy chứng chỉ ACCA, CPA Australia... Bằng cách đó, sau 4 năm hoạt động Hội viên VACPA đã tăng lên gấp 4 lần, trong đó 1/4 Hội viên đã đạt chứng chỉ kiểm toán viên quốc tế.

* Phát triển các hoạt động đào tạo và tư vấn

Trong bối cảnh kiến thức và thông tin kinh tế trong nước và quốc tế thay đổi và phát triển hàng ngày, hàng giờ đòi hỏi nghề nghiệp tư vấn và kiểm toán phải học tập thường xuyên và suốt đời. Hội nghề nghiệp về kiểm toán có ưu thế tuyệt đối là giàu kinh nghiệm thực tế. Hội viên của VACPA có thể là giảng viên trong các trường đại học, cán bộ quản lý và nhiều nhất là người làm thực tế trong các công ty kế toán, kiểm toán, kể cả chuyên gia ở các nước và hội nghề nghiệp quốc tế. Do đó chương trình đào tạo đều xuất phát từ yêu cầu thực tế cần hệ thống hóa lại, phổ biến rộng rãi cho Hội viên. Đầu mỗi năm VACPA đều đưa ra khoảng 30 chuyên đề cần đào tạo, cập nhật trong năm gửi cho các công ty và hội viên. Trên cơ sở tổng hợp các yêu cầu của hội viên, VACPA lập lên chương trình đào tạo xuyên suốt cả năm cho từng cấp nhân viên lựa chọn. Bằng cách đó, mỗi hội viên đều lựa chọn được chuyên đề mình cần và sắp xếp lịch học phù hợp. Về hình thức tổ chức, có lớp ngắn ngày, lớp dài 3, 4 ngày; có lớp học, có hội thảo hoặc đối thoại, giao tiếp hội viên... Có lớp tổ chức tập trung, có lớp tổ chức cho từng công ty theo yêu cầu chuyên sâu từng loại kiến thức hoặc từng loại khách hàng...và sắp tới là đào tạo trực tuyến (E-Learning).

Bên cạnh hoạt động đào tạo theo mùa (quý II, III) thì hoạt động tư vấn được thực hành trong suốt cả năm, nhất là mùa kiểm toán (quý I, IV). Bằng cách trả lời trực tiếp qua điện thoại, qua website, gửi email, fax hoặc công văn chính thức... VACPA không chỉ cung cấp kiến thức và kinh nghiệm thực tế cho Hội viên mà nhiều khi là giúp Hội viên xử lý kịp thời khi đang thực hành kiểm toán ở xa... Hoạt động tư vấn đem lại lợi ích tức thì cho Hội viên làm cho Hội trở thành người đồng hành đáng tin cậy của Hội viên.

* Tăng cường kiểm tra, giám sát chất lượng dịch vụ của Hội viên

VACPA luôn khẳng định: Chất lượng dịch vụ quyết định sự tồn tại và uy tín của kiểm toán viên. Do đó trên cơ sở được Bộ Tài chính ủy quyền, ngay sau khi thành lập, VACPA đã thực hành công việc kiểm soát chất lượng dịch vụ. Trước hết, Hội phải hình thành được tổ chức hoạt động kiểm soát chất lượng thông qua việc thành lập Ban kiểm soát chất lượng là những người phải có chứng chỉ kiểm toán viên, phải kinh qua hoạt động thực hành kiểm toán và tư vấn ở công ty. Bước đầu còn kết hợp với Bộ Tài chính và huy động chuyên gia từ các công ty kiểm toán theo hình thức kiểm tra chéo dưới sự tổ chức, điều hành của VACPA. Việc huy động sẽ được giảm dần bằng cách tăng thêm dần cán bộ chuyên trách kiểm tra của Hội.

Mỗi năm vừa qua, VACPA đã kiểm tra được từ 25% đến 30% số lượng hội viên cũng là số lượng các công ty kiểm toán. Bình quân 3 năm 1 lần được kiểm tra. Cũng có thể được kiểm tra bất thường hoặc kiểm tra liền 2, 3 năm. Sau khi kiểm tra ở từng công ty, đoàn kiểm tra của Hội đều lập Biên bản kiểm tra, trong đó nhận xét, đánh giá điểm tốt, nhất là đánh giá các tồn tại về tổ chức và chuyên môn. Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm tra 1 năm được phổ biến cho tất cả các công ty và hội viên trong cả nước rút kinh nghiệm.

Khi xảy ra các vụ việc sai phạm đột xuất hoặc do phát hiện của Hội viên, VACPA cũng yêu cầu giải trình, trực tiếp kiểm tra và tham gia xử lý.

* Mở rộng quan hệ quốc tế

Kiểm toán độc lập là một nghề nghiệp mới, trong khi các nước đã phát triển hơn 100 năm, không thể tự mình mày mò tìm kiếm được, VACPA xác định ngay từ đầu là cần mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác và học tập kinh nghiệm của Hội nghề nghiệp các nước. Trong 5 năm hoạt động, VACPA đã ký Biên bản hợp tác với 3 Hội nghề nghiệp quốc tế là ACCA, CPA Australia và Hiệp hội Kế toán Singapore (ICPAS) và 2 trường Đại học. Thông qua Biên bản hợp tác VACPA đã có 3 chuyến đi học tập, khảo sát kinh nghiệm về hoạt động Hội ở Anh quốc, AustraliaSingapore...

Học tập một cách chọn lọc kinh nghiệm của tổ chức nghề nghiệp quốc tế và triển khai phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam là cách đi hữu hiệu nhất cho Hội nghề nghiệp ở Việt Nam.

Bằng cách này, VACPA cũng đang tham gia vào quá trình thảo luận và ký kết hiệp định thừa nhận lẫn nhau, trước hết là các nước Asean. Chúng ta còn phải làm thật nhiều việc, nhưng những gì VACPA đã và đang làm chính là trên con đường hướng đến mục tiêu của một tổ chức nghề nghiệp chuyên nghiệp, độc lập, tự chủ, tự quản, tự cân đối được khu vực và quốc tế thừa nhận.

Hãy tin tưởng vào con đường đã và đang đi của Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA)./.

˜(Theo VACPA)

Tuesday, 13 April 2010

Văn bản pháp luật mới của các cơ quan ban ngành mới ban hành năm 2010

UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI

- Pháp lệnh số
11/2010/UBTVQH12 ngày 16/03/2010 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Về thủ tục bắt giữ tàu bay

CHỦ TỊCH NƯỚC

- Quyết định số 283/QĐ-CTN ngày 15/03/2010 của Chủ tịch nước Về việc cho thôi quốc tịch Việt Nam
- Lệnh số 01/2010/L-CTN ngày 26/03/2010 của Chủ tịch nước Về việc công bố Pháp lệnh thủ tục bắt giữ tàu bay

CHÍNH PHỦ

- Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 08/04/2010 của Chính phủ Về việc thành lập thành phố Bảo Lộc thuộc tỉnh Lâm Đồng
- Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 06/04/2010 của Chính phủ Về những giải pháp bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; không để lạm phát cao và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6;5% trong năm 2010
- Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 02/04/2010 của Chính phủ Về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 03/2010
- Nghị định số 35/2010/NĐ-CP ngày 06/04/2010 của Chính phủ Về việc quy định mức trợ cấp; phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng
- Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 02/04/2010 của Chính phủ Về việc quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

- Quyết định số 449/QĐ-TTg ngày 08/04/2010 của Thủ tướng Chính phủ Về việc phê chuẩn kết quả bầu cử bổ sung Thành viên Uỷ ban nhân dân tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2004 - 2011
- Quyết định số 448/QĐ-TTg ngày 08/04/2010 của Thủ tướng Chính phủ Về việc phê chuẩn kết quả miễn nhiệm Thành viên Uỷ ban nhân dân tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2004 - 2011
- Quyết định số 447/QĐ-TTg ngày 08/04/2010 của Thủ tướng Chính phủ Về việc ban hành Quy chế hoạt động của Ban Chủ nhiệm Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu
- Quyết định số 35/2010/QĐ-TTg ngày 08/04/2010 của Thủ tướng Chính phủ Về việc kiện toàn Uỷ ban An toàn giao thông Quốc gia và Ban An toàn giao thông tỉnh; thành phố trực thuộc Trung ương
- Quyết định số 34/2010/QĐ-TTg ngày 08/04/2010 của Thủ tướng Chính phủ Về việc ban hành Quy định về bồi thường; hỗ trợ và tái định cư các dự án thuỷ lợi; thuỷ điện
- Quyết định số 446/QĐ-TTg ngày 07/04/2010 của Thủ tướng Chính phủ Về việc thành lập; tổ chức và hoạt động của Hội đồng An toàn hạt nhân quốc gia
- Quyết định số 445/QĐ-TTg ngày 07/04/2010 của Thủ tướng Chính phủ Về việc phê duyệt Kế hoạch thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng
- Quyết định số 435/QĐ-TTg ngày 05/04/2010 của Thủ tướng Chính phủ Về việc xuất thuốc bảo vệ thực vật dự trữ quốc gia hỗ trợ tỉnh Thái Bình phòng; chống dịch bệnh hại lúa
- Quyết định số 421/QĐ-TTg ngày 02/04/2010 của Thủ tướng Chính phủ Về việc bổ sung thành viên và nhiệm vụ Ban chỉ đạo của Chính phủ thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010 và chương trình Phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 - 2010
- Quyết định số 33/2010/QĐ-TTg ngày 02/04/2010 của Thủ tướng Chính phủ Về việc ban hành quy chế tổ chức ngày Việt Nam ở nước ngoài
- Quyết định số 420/QĐ-TTg ngày 31/03/2010 của Thủ tướng Chính phủ Về việc điều tra thống kê hiện trạng phổ cập dịch vụ điện thoại; internet và nghe - nhìn toàn quốc năm 2010
- Công văn số 528/TTg-KTN ngày 31/03/2010 của Thủ tướng Chính phủ Về việc điều chỉnh nhiệm vụ phân lũ; chậm lũ hệ thống sông Hồng bảo vệ an toàn cho Thủ đô
- Công văn số 526/TTg-QHQT ngày 31/03/2010 của Thủ tướng Chính phủ Về việc bổ sung vốn cho Dự án Quản lý rủi ro thiên tai do WB tài trợ
- Chỉ thị số 424/CT-TTg ngày 05/04/2010 của Thủ tướng Chính phủ Về việc tăng cường các biện pháp nhằm bảo đảm cung cấp điện trong các tháng mùa khô năm 2010
- Chỉ thị số 422/CT-TTg ngày 02/04/2010 của Thủ tướng Chính phủ Về việc tăng cường quản lý và phát triển bền vững cơ sở hạ tầng viễn thông

VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ

- Công văn số 100/TB-VPCP ngày 08/04/2010 của Văn phòng Chính phủ Về việc thông báo ý kiến kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Trương Vĩnh Trọng tại Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Quyết định số 104/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách đối với thanh niên xung phong đã hoàn thành nhiệm vụ trong kháng chiến
- Công văn số 2210/VPCP-KTN ngày 05/04/2010 của Văn phòng Chính phủ Về việc đầu tư Dự án vượt sông Nhà Bè và khu đô thị sinh thái An Sinh
- Công văn số 2187/VPCP-KTN ngày 02/04/2010 của Văn phòng Chính phủ Về việc phòng; trừ bệnh lùn sọc đen hại lúa
- Công văn số 2186/VPCP-KTN ngày 02/04/2010 của Văn phòng Chính phủ Về việc thực hiện Công điện số 133/CĐ-TTg ngày 16/01/2010 của Thủ tướng Chính phủ
- Công văn số 2088/VPCP-QHQT ngày 31/03/2010 của Văn phòng Chính phủ Về việc gia hạn MOU giữa Việt Nam và Canada về dự án Xây dựng và kiểm soát chất lượng nông sản thực phẩm
- Công văn số 2044/VPCP-KTN ngày 30/03/2010 của Văn phòng Chính phủ Về phương án triển khai các dự án nhà máy điện Sông Hậu

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

- Thông tư số 11/2010/TT-NHNN ngày 05/04/2010 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Về việc bãi bỏ Chỉ thị số 04/2003/CT-NHNN ngày 18/06/2003 về việc tăng cường công tác kiểm soát nội bộ; kiểm toán nội bộ Ngân hàng Nhà nước
- Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 07/04/2010 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn; hiệu quả năm 2010

BỘ TÀI CHÍNH

- Thông tư số 42/2010/TT-BTC ngày 25/03/2010 của Bộ Tài chính Về việc ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về dự trữ nhà nước đối với thóc bảo quản thoáng
- Thông tư số 41/2010/TT-BTC ngày 25/03/2010 của Bộ Tài chính Về việc ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về dự trữ nhà nước đối với máy bơm nước chữa cháy
- Quyết định số 671/QĐ-BTC ngày 30/03/2010 của Bộ Tài chính Về việc công bố danh sách tổ chức tư vấn định giá bị loại khỏi Danh sách cung cấp dịch vụ xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá
- Quyết định số 670/QĐ-BTC ngày 30/03/2010 của Bộ Tài chính Về việc công bố danh sách tổ chức tư vấn định giá bị đình chỉ cung cấp dịch vụ xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá
- Quyết định số 669/QĐ-BTC ngày 30/03/2010 của Bộ Tài chính Về việc công bố danh sách các tổ chức tư vấn định giá được tiếp tục thực hiện cung cấp dịch vụ xác định giá trị doanh nghiệp sau khi bị đình chỉ theo quy định tại Quyết định số 1007/QĐ-BTC ngày 15/5/2009 của Bộ trưởng Bộ Tài chính
- Quyết định số 668/QĐ-BTC ngày 30/03/2010 của Bộ Tài chính Về việc công bố danh sách tổ chức tư vấn định giá đăng ký mới năm 2010 được phép cung cấp dịch vụ xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hoá
- Công văn số 4033/BTC-QLG ngày 01/04/2010 của Bộ Tài chính Về việc điều hành kinh doanh xăng dầu
- Công văn số 3671/BTC-TCT ngày 26/03/2010 của Bộ Tài chính Về việc đính chính công văn số 3124/BTC-TCT ngày 15/3/2010
- Công văn số 3578/BTC-TCHQ ngày 24/03/2010 của Bộ Tài chính Về việc gia hạn thêm thời gian sử dụng Tem miễn thuế và biên lai thu lệ phí Hải quan do Tổng cục Thuế phát hành
- Công văn số 3500/BTC-QLG ngày 22/03/2010 của Bộ Tài chính Về việc điều hành kinh doanh xăng dầu
- Công văn số 3055/BTC-TCT ngày 15/03/2010 của Bộ Tài chính Về thuế GTGT đối với vận tải quốc tế
- Công văn số 2505/BTC-TCT ngày 02/03/2010 của Bộ Tài chính Về hồ sơ kê khai lệ phí trước bạ
- Công văn số 2138/BTC-TCHQ ngày 12/02/2010 của Bộ Tài chính Về thủ tục hải quan và chính sách thuế đối với hàng hoá phục vụ sinh hoạt của DNCX
- Công văn số 1735/BTC-CĐKT ngày 05/02/2010 của Bộ Tài chính Về việc đăng ký áp dụng chế độ kế toán Việt Nam

TỔNG CỤC THUẾ

- Công văn số 994/TCT-KK ngày 29/03/2010 của Tổng cục Thuế Về việc hướng dẫn thực hiện MLNSNN theo Thông tư số 26/2010/TT-BTC và sửa chỉ tiêu báo cáo kế toán thuế
- Công văn số 620/TCT-KK ngày 27/02/2010 của Tổng cục Thuế Về việc hướng dẫn thời gian khoá Sổ thuế; Báo cáo kế toán; thống kê thuế
- Công văn số 502/TCT-CS ngày 11/02/2010 của Tổng cục Thuế Về việc hoàn thuế GTGT
- Công văn số 433/TCT-KK ngày 05/02/2010 của Tổng cục Thuế Về việc kê khai giảm thuế TNDN quý IV/2008 theo Nghị quyết 30/NQ-CP
- Công văn số 421/TCT-TNCN ngày 05/02/2010 của Tổng cục Thuế Về việc trả lời vướng mắc về thuế TNCN

TỔNG CỤC HẢI QUAN

- Công văn số 1760/TCHQ-GSQL ngày 07/04/2010 của Tổng cục Hải quan Về việc phân loại hàng hoá nhập khẩu
- Công văn số 1751/TCHQ-GSQL ngày 07/04/2010 của Tổng cục Hải quan Về việc gia công chuyển tiếp
- Công văn số 1750/TCHQ-GSQL ngày 07/04/2010 của Tổng cục Hải quan Về việc đăng kiểm xe ô tô chữa cháy
- Công văn số 1749/TCHQ-GSQL ngày 07/04/2010 của Tổng cục Hải quan Về việc hướng dẫn thủ tục nhập khẩu xà lan biển
- Công văn số 1739/TCHQ-KTTT ngày 06/04/2010 của Tổng cục Hải quan Về việc phúc đáp công văn 08/PM-2010
- Công văn số 1708/TCHQ-KTTT ngày 02/04/2010 của Tổng cục Hải quan Về việc không thu thuế XK
- Công văn số 1695/TCHQ-KTTT ngày 01/04/2010 của Tổng cục Hải quan Về việc đăng ký danh mục miễn thuế
- Công văn số 1694/TCHQ-KTTT ngày 01/04/2010 của Tổng cục Hải quan Về thuế suất thuế GTGT
- Công văn số 1690/TCHQ-KTTT ngày 01/04/2010 của Tổng cục Hải quan Về vướng mắc việc phạt chậm nộp thuế GTGT
- Công văn số 1676/TCHQ-GSQL ngày 01/04/2010 của Tổng cục Hải quan Về việc phân loại mặt hàng nhông xích đề xe máy ""
- Công văn số 1675/TCHQ-GSQL ngày 01/04/2010 của Tổng cục Hải quan Về việc phân loại mặt hàng máy massage
- Công văn số 1651/TCHQ-KTTT ngày 31/03/2010 của Tổng cục Hải quan Về việc đăng ký danh mục miễn thuế

BỘ CÔNG THƯƠNG

- Thông tư số 11/2010/TT-BCT ngày 29/03/2010 của Bộ Công thương Về việc ban hành Quy chế đại lý kinh doanh khí dầu mỏ hoá lỏng
- Quyết định số 1669/QĐ-BCT ngày 05/04/2010 của Bộ Công thương Về việc bổ sung Quy hoạch phân vùng thăm dò; khai thác; chế biến và sử dụng nhóm khoáng chất nguyên liệu đá vôi trắng (đá hoa); felspat; cao lanh và magnezit đến năm 2015; có xét đến năm 2025
- Công văn số 3143/BCT-TC ngày 30/03/2010 của Bộ Công thương Về việc nhập khẩu vật tư; thiết bị cho dự án điện
- Chỉ thị số 12/CT-BCT ngày 07/04/2010 của Bộ Công thương Về việc thực hiện đảm bảo cung cấp điện các tháng mùa khô năm 2010

BỘ LAO ĐỘNG, THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI

- Công văn số 1078/LĐTBXH-LĐTL ngày 08/04/2010 của Bộ Lao động; Thương binh và Xã hội Về việc thực hiện chính sách lao động dôi dư theo Nghị định số 110/2007/NĐ-CP
- Công văn số 1077/LĐTBXH-LĐTL ngày 08/04/2010 của Bộ Lao động; Thương binh và Xã hội Về việc thực hiện chính sách lao động dôi dư theo Nghị định số 110/2007/NĐ-CP
- Công văn số 1076/LĐTBXH-LĐTL ngày 08/04/2010 của Bộ Lao động; Thương binh và Xã hội Về việc thực hiện chính sách lao động dôi dư theo Nghị định số 110/2007/NĐ-CP
- Công văn số 1075/LĐTBXH-LĐTL ngày 08/04/2010 của Bộ Lao động; Thương binh và Xã hội Về việc trợ cấp thôi việc trong doanh nghiệp được cổ phần hoá theo NĐ 187/2004/NĐ-CP
- Công văn số 1068/LĐTBXH-LĐTL ngày 08/04/2010 của Bộ Lao động; Thương binh và Xã hội Về việc hướng dẫn thực hiện nâng bậc lương cho người lao động

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

- Thông tư số 12/2010/TT-BGDĐT ngày 29/03/2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo Về việc ban hành Quy định về quản lý đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ của Bộ Giáo dục và Đào tạo
- Công văn số 1604/BGDĐT-VP ngày 30/03/2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo Về việc quy định tiêu chuẩn đánh giá và cho điểm về các lĩnh vực công tác đối với các cơ sở giáo dục đại học; cao đẳng

BỘ TƯ PHÁP

- Công văn số 89/BTP-KHTC ngày 25/03/2010 của Bộ Tư pháp Về việc thực hiện văn bản mới có hiệu lực thi hành trong công tác đấu thầu

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

- Quyết định số 1174/QĐ-BVHTTDL ngày 02/04/2010 của Bộ Văn hóa; Thể thao và Du lịch Về việc phê duyệt phương án chuyển đổi Công ty Xuất nhập khẩu phát hành phim Việt Nam thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Xuất nhập khẩu và Phát hành phim Việt Nam

BỘ XÂY DỰNG

- Quyết định số 410/QĐ-BXD ngày 31/03/2010 của Bộ Xây dựng Về việc công bố chỉ số giá xây dựng Quí 4 và năm 2009

UỶ BAN CHỨNG KHOÁN NHÀ NƯỚC

- Công văn số 920/UBCK-QLPH ngày 02/04/2010 của Uỷ ban Chứng khoán Về việc chào mua công khai chứng khoán

UBND TP HÀ NỘI

- Quyết định số 1569/QĐ-UBND ngày 06/04/2010 của Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội Về việc phê duyệt đề án quản lý bảo vệ môi trường; quản lý sử dụng đất đai lưu vực sông Nhuệ
- Quyết định số 1505/QĐ-UBND ngày 02/04/2010 của Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội Về việc phê duyệt kế hoạch đấu thầu Dự án di chuyển các công trình hạ tầng kỹ thuật trong phạm vi GPMB dự án đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông
- Quyết định số 1494/QĐ-UBND ngày 02/04/2010 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội Về việc kiện toàn Ban Chỉ đạo phòng; chống tham nhũng thành phố Hà Nội
- Quyết định số 13/2010/QĐ-UBND ngày 01/04/2010 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội Về việc ban hành Quy định tiếp công dân và giải quyết khiếu nại; tố cáo thuộc Thành phố Hà Nội
- Công văn số 2267/UBND-LĐCSXH ngày 06/04/2010 của Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội Về việc xây dựng đơn giá tiền lương và quỹ tiền lương năm 2010
- Công văn số 2115/UBND-VHKG ngày 31/03/2010 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội Về việc triển khai các hoạt động kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội; công tác quản lý; tổ chức hoạt động quảng cáo rao vặt trên địa bàn thành phố Hà Nội

UBND TP HỒ CHÍ MINH

- Quyết định số 22/2010/QĐ-UBND ngày 29/03/2010 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh Về việc phê duyệt Chương trình giảm nghèo; tăng hộ khá của thành phố giai đoạn 2009 - 2015
- Quyết định số 18/2010/QĐ-UBND ngày 29/03/2010 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh Về việc thành lập thí điểm lực lượng quản lý đê nhân dân tại các phường trọng điểm thường xuyên bị ảnh hưởng triều cường trên địa bàn quận 12 và quận Thủ Đức
- Chỉ thị số 11/2010/CT-UBND ngày 02/04/2010 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh Về việc tăng cường công tác quản lý và bình ổn giá trên địa bàn thành phố năm 2010
- Chỉ thị số 10/2010/CT-UBND ngày 02/04/2010 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh Về công tác phòng; chống lụt; bão; thiên tai và tìm kiếm cứu nạn năm 2010 trên địa bàn thành phố

CỤC THUẾ TP HÀ NỘI

- Quyết định số 5086/QĐ-CT-THNVDT ngày 01/04/2010 của Cục thuế thành phố Hà Nội Về việc ban hành Bảng giá tối thiểu tính lệ phí trước bạ một số loại tài sản như: tàu thuyền; ô tô; xe máy; súng săn; súng thể thao
- Công văn số 3378/CT-TNCN ngày 08/03/2010 của Cục thuế thành phố Hà Nội Về việc quyết toán thuế TNCN năm 2009 đối với tổ chức; cá nhân uỷ nhịêm thu qua Sở Công Thương

BẢO HIỂM XÃ HỘI TP HỒ CHÍ MINH

- Công văn số 719/BHXH-PTHU ngày 29/03/2010 của Bảo hiểm Xã hội thành phố Hồ Chí Minh Về việc thực hiện quy định về mức lương tối thiểu chung