Tuesday, 22 December 2009

Chênh lệch định giá lại tài sản phải chịu thuế

Xem hình

Đây là một trong những quy định tại dự thảo Thông tư hướng dẫn xác định thu nhập chịu thuế đối với khoản chênh lệch do đánh giá lại tài sản mà đang được Bộ Tài chính lấy ý kiến.

Theo đó,với DN ghi nhận chênh lệch giá trị tài sản khi cổ phần hóa, phần chênh lệch giá trị tài sản được ghi tăng vào phần vốn nhà nước và được ghi nhận tính khấu hao; Với trường hợp định giá lại tài sản để góp vốn, chia tách, sáp nhập… thì khoản chênh lệch sẽ được ghi nhận dần vào lợi nhuận khác của DN góp vốn theo thời gian khấu hao của đơn vị nhận góp vốn và chịu thuế thu nhập DN.

Riêng trường hợp định giá lại giá trị sử dụng đất để góp vốn, điều chuyển, chia tách, sáp nhập… thì sẽ chia ra 2 trường hợp:

- Với quyền sử dụng đất có thời hạn thì việc ghi nhận lợi nhuận, tính thuế phần chênh lệch giá trị sử dụng đất được tính như trường hợp góp vốn bằng tài sản thông thường.Với trường hợp đất góp vốn là đất có quyền sử dụng lâu dài, hoặc khi đó, DN nhận góp vốn không trích khấu hao với giá trị quyền sử dụng đất, DN góp vốn sẽ không phải chịu thuế TNDN với phần chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất.

- Với chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất khi góp vốn để đầu tư xây dựng với mục đích bán, thì sẽ phải tính vào thu nhập khác và chịu thuế thu nhập DN.



Theo thuvienphapluat

“1001” chiêu lách thuế nhà, đất

Xem hình

Sau một thời gian ngắn thực thi Thuế thu nhập cá nhân đánh vào chuyển nhượng bất động sản, hàng loạt chiêu thức lách thuế đã được phát hiện.
Các trường hợp lách thuế, cơ quan thuế đều biết. Tuy nhiên, để xử lý hoặc chỉ nhẹ nhàng là “bắt bẻ” thôi cũng... chịu!?
“Đi vòng” lách thuế

Công khai, minh bạch giảm bớt thủ tục hành chính sẽ góp phần giảm thiểu gian lận thuế. Ảnh chỉ mang tính minh họa


Theo Thông tư 84, hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân, thì các thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản giữa vợ với chồng; giữa ông bà, cha mẹ với con, cháu và giữa anh chị em ruột với nhau sẽ được miễn thuế. Tuy nhiên, Thông tư lại không cho miễn thuế với trường hợp chị dâu với em chồng, anh rể em vợ... Theo các cơ quan thuế địa phương, quy định này không chỉ gây phiền hà cho người dân mà còn làm khó khăn thêm nhiều cho cơ quan quản lý. Có những trường hợp, anh chị em ruột cho nhau thật nhưng nếu làm đúng quy định vẫn phải mất thuế chuyển nhượng. Khi đó người dân lại tìm mọi cách để “lách” luật.

Ông Lê Tuấn Đỏ, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thuế Hà Đông (Hà Nội) lấy ví dụ: “Chẳng hạn, tôi cho em trai tôi một mảnh đất trị giá 1,5 tỷ đồng. Nếu mảnh đất đó đứng tên vợ chồng tôi thì theo quy định, chị dâu cho em chồng không được miễn thuế nên em trai tôi vẫn phải đóng thuế thu nhập cho khoản “quà tặng” là 74 triệu đồng”. Thực tế, trong trường hợp này, nếu làm hợp đồng bán lại cho “em trai” thì khoản thuế thu nhập phải chịu còn... thấp hơn là hợp đồng cho tặng, bởi người bán chỉ phải nộp 15 triệu đồng. “Đây là một điểm bất cập. Nó cũng không đúng với phong tục tập quán của Việt Nam”, ông Đỏ nói.

Tuy nhiên đấy chỉ là trên lý thuyết còn thực tế thì người ta có thể đi “vòng” để lách thuế dễ dàng trong trường hợp này. Ông Đỏ nói tiếp: “Trong trường hợp này tôi bảo vợ tôi làm thủ tục tặng tôi thì không phải nộp thuế. Sau đó tôi làm thủ tục tặng cho em tôi thì cũng không phải nộp. Hoặc có cách khác, vợ chồng tôi làm thủ tục tặng bố mẹ tôi. Sau đó bố mẹ tôi làm thủ tục cho em tôi, tức là cho con ruột thì trường hợp này thậm chí còn không phải nộp thuế trước bạ”. Theo ông Đỏ, quy định này vô tình bắt buộc người dân phải đi đường vòng, gây áp lực cho cơ quan công quyền. Kết quả cuối cùng cơ quan thuế vẫn không thu được thuế. Trong khi cơ quan thuế phải mất thêm chi phí thời gian, vật chất, nhân lực để phục vụ. “Chưa kể nó lại là một kẽ hở cho những người chuyên môn nghiên cứu cái này, đi làm “cò” để ăn chặn cho người dân”, ông Đỏ phân tích.

Khai man... 1 nhà

Bà Nguyễn Thị Xuyên, Đội trưởng đội Thuế trước bạ và thu khác (nhà đất), Chi cục thuế quận Cầu Giấy (Hà Nội) lại đưa ra một trường hợp khác, đó là trường hợp miễn thuế cho cá nhân chuyển nhượng chỉ có 1 nhà ở. Tại Thông tư 84 quy định miễn thuế cho trường hợp: “Thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất ở của cá nhân trong trường hợp người chuyển nhượng chỉ có duy nhất một nhà ở, quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam”. Theo bà Xuyên, Thông tư quy định như vậy, nhưng khi cơ quan thuế địa phương thực hiện, thì rất khó khăn vì tiêu chí xác định “1 nhà” không rõ ràng. Đây vô tình cũng lại là một lỗ hổng để người dân “lách” thuế. Nhiều cơ quan thuế địa phương thừa nhận, khó có thể rà soát trường hợp này vì về nguyên tắc, người dân sẽ tự kê khai và tự chịu trách nhiệm về kê khai “1 nhà” duy nhất của mình.

Bà Vũ Thị Mai, Cục trưởng Cục thuế Hà Nội nói: “Về nguyên tắc kê khai thuế là người dân tự khai và tự chịu trách nhiệm”. Tuy nhiên, thực tế cũng khó có cách nào để xác minh lại các trường hợp kê khai này. Ông Lê Tuấn Đỏ, chia sẻ cách làm của cơ quan mình. Ông nói: “Giả sử anh có hộ khẩu ở 65 Quang Trung, Hà Đông, anh lại có 1 cái nhà chung cư ở Văn Quán cần bán, anh kê khai anh có 1 nhà duy nhất để không phải nộp thuế. Tôi sẽ yêu cầu anh phô-tô cho tôi sổ hộ khẩu và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở chỗ đó. Nếu anh có tên trong sổ hộ khẩu ở 65 Quang Trung, Hà Đông và giấy chứng nhận nhà không đứng tên anh thì thuế phải chấp nhận trường hợp này vì anh có 1 nhà”.

Ông Đỏ cũng thừa nhận, cách quản lý này là ở phần ngọn song cơ quan thuế chỉ có thể làm được đến mức độ đó. “Người ta cứ khai tự chịu trách nhiệm, cơ quan thuế không có chức năng đi thanh tra. Người ta cứ khai đó là tài sản duy nhất là mình phải miễn cho người ta”, ông Đỏ nói.

25% hay 2% đều “lách” tuốt!

Theo Thông tư 84, để tính thuế thu nhập với chuyển nhượng bất động sản, trường hợp có đầy đủ giấy tờ chứng nhận chi phí mua ban đầu và giá bán thì sẽ tính với mức thuế suất 25% trên phần chênh lệch giữa giá bán và giá gốc. Trường hợp không xác định được các chi phí liên quan thì tính thuế 2% trên tổng giá trị hợp đồng chuyển nhượng. Vậy là rộ lên chuyện “lách luật” bằng cách kể cả trường hợp có đủ giấy tờ xác minh chi phí mua, bán vẫn cố tình tính thuế theo thuế suất 2% nếu tính toán thấy cách đó có lợi hơn. Ông Nguyễn Hữu Hùng, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thuế quận Cầu Giấy (Hà Nội) cho biết: “Đến nay 99% các hồ sơ nộp tại địa bàn đều tính theo mức thuế suất 2%. Rất ít hồ sơ tính theo cách 25%”.

Trong nhiều trường hợp, cách tính thuế 25% trên chênh lệch giá mua và giá gốc thì số thuế phải nộp sẽ lớn hơn nhiều so với cách tính thuế trên 2% giá mua. Tuy nhiên, theo những ghi nhận mới đây, thì với cả cách tính thuế trên 25% giá mua và giá gốc người ta cũng có cách “lách” thuế. Đó là người mua và người bán, bắt tay nhau khai man giá trị hợp đồng. Ông Đỏ lấy ví dụ: “Chẳng hạn, một căn hộ mua ở Văn Quán có giá vốn xác định, có phiếu thu 1 tỷ, có biên lai nộp phí trước bạ 5 triệu, cộng một số chi phí khác hợp thành giá vốn. Sau đó thực tế người ta bán 5 tỷ, nhưng người ta chỉ kê khai giá bán bằng hoặc xấp xỉ giá gốc thì mình cũng chịu”. Trường hợp này, mức thu thuế thậm chí còn thấp hơn nhiều nếu tính theo cách 2%. Ở quận này có nhiều trường hợp nộp thuế với 25%, chủ yếu là các giao dịch tại chung cư, khu đô thị, các dự án xây nhà ở để bán. Khi có đủ chứng từ gốc, kê khai đủ thì cơ quan thuế sẽ phải tính cho họ theo thuế suất 25%.

Ông Đỏ phân tích, quy định giá thực tế là giá ghi trên hợp đồng. Nhưng giá ghi trên hợp đồng có thực là giá chuyển nhượng hay không thì rất khó xác định, còn gây nhiều tranh cãi. Luật có khoản ràng buộc là nếu giá chuyển nhượng thấp hơn giá đất do UBND tỉnh, thành phố quy định thì theo giá của tỉnh, thành phố. Tuy nhiên, thực tế giá của thành phố quy định thường thấp hơn rất nhiều so với giá thực tế nên ràng buộc này cũng thành vô hiệu. “Chẳng hạn, giá thành phố quy định tại Hà Đông nhiều nơi chỉ có 1,5 triệu đồng/m2, nhưng giá thực tế chuyển nhượng trên thị trường lên đến 20-30 triệu đồng/m2. Khi đó người ta kê khai chỉ cần nhích lên một ít thôi so với giá bán thì cơ quan thuế cũng không bắt bẻ được rồi”, ông Đỏ nói.

Trong một xã hội sử dụng tiền mặt như ở nước ta hiện nay thì việc thất thoát thuế là khó tránh khỏi. Tuy nhiên, trong một số trường hợp sự thất thoát lại nảy sinh từ chính từ những chính sách bất hợp lý.


Theo thuvienphapluat

Thuế nhà, đất đã bị thất thu như thế nào? Thông tư ngành thuế, thuế không... "thông"

Xem hình

Thông tư 161 của Bộ Tài chính có một nội dung khiến người dân, doanh nghiệp và cả cơ quan thuế địa phương đều “gặp khó”. Đó là việc thu thuế thu nhập cá nhân với hoạt động chuyển nhượng vốn góp. Từ đây, cũng đã lộ ra không ít kẽ hở gây thất thu thuế nhiều năm qua. Tại các nước phát triển, thu ngân sách từ bất động sản hàng năm có thể chiếm tới 30-40%. Tại Việt Nam thu từ nhà, đất hiện nay chiếm khoảng 10% tổng thu. Trong khi, giá bất động sản tại các đô thị lớn của nước ta lại thuộc hạng cao so với thế giới. Vậy thì các khoản lợi nhuận từ bất động sản rơi vào túi ai? Qua khảo sát, chúng tôi phát hiện ra những nghịch lý gây nên tình trạng thất thu này.

“Bó tay” với chuyển nhượng vốn góp

Thông tư 161/2009, bổ sung cho Thông tư 84/2008 hướng dẫn việc thu thuế thu nhập cá nhân với chuyển nhượng bất động sản. Trong đó có một nội dung quan trọng là thu thuế với cả trường hợp “góp vốn để hưởng quyền mua căn hộ, mua nền nhà”. Tại khoản 4, điều 3 quy định về nghĩa vụ khai, nộp thuế ghi: “Trường hợp cá nhân góp vốn với các tổ chức, cá nhân xây dựng nhà để hưởng quyền mua căn hộ, mua nền nhà nhưng trong quá trình thực hiện hợp đồng lại chuyển nhượng cho tổ chức, cá nhân khác phần vốn và quyền mua nền, căn hộ thì thực hiện kê khai, nộp thuế thu nhập cá nhân đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản”.

Ông Lê Tuấn Đỏ, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thuế quận Hà Đông (Hà Nội) cho biết, sau khi Nhà nước “cấm mua nhà trên giấy”, buộc các dự án chỉ bán nhà khi đã có cơ sở hạ tầng thì các chủ đầu tư nghĩ ra cách “lách luật” là huy động vốn dưới dạng vốn góp theo... tiến độ. Những người góp vốn này sẽ hưởng quyền mua căn hộ, đất nền tại dự án đã góp vốn theo thoả thuận với chủ đầu tư.

Tuy nhiên, thực tế hiện nay người góp vốn có thể bán lại “quyền mua” của mình cho nhà đầu tư thứ cấp khi dự án còn trong giai đoạn thi công, từ đó nảy sinh hoạt động “chuyển nhượng vốn góp”. “Với Thông tư 161, hoạt động chuyển nhượng vốn góp sẽ bị kiểm soát, khoản lợi nhuận thu được từ việc chuyển nhượng vốn góp sẽ bị tính thuế thu nhập cá nhân như chuyển nhượng bất động sản”, ông Đỏ nói.

Vậy nhưng, thực tế thì sao? Ông Nguyễn Hữu Hùng, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thuế quận Cầu Giấy (Hà Nội) cho biết, việc chuyển nhượng quyền mua bán diễn ra khá phổ biến. Tức là trong quá trình dự án đang triển khai thì người góp vốn có thể chuyển nhượng cho các nhà đầu tư cấp 2, 3... quyền mua căn hộ, đất nền tại dự án họ đã góp vốn. Với các trường hợp này, hiện nay, cơ quan thuế vẫn “bó tay”, chưa tìm ra cách nào hữu hiệu để kiểm soát.

Đặc biệt, tại Điều 2, Khoản 1 còn quy định: “Phải truy nộp thuế thu nhập cá nhân đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản khi góp vốn vào doanh nghiệp”. Theo giải thích của ông Đỏ, với cá nhân, tổ chức góp vốn vào dự án bằng bất động sản, khi phát sinh hoạt động chuyển nhượng, bên cạnh khoản thuế thu nhập tính trên chênh lệch giá trị chuyển nhượng. Cơ quan thuế sẽ truy thu cả phần giá trị tài sản cá nhân, tổ chức đã góp vốn ban đầu vào dự án theo dạng chuyển nhượng bất động sản.

Lúng túng cả người thu lẫn người nộp

Sau gần 3 tháng Thông tư 161 có hiệu lực, tại Chi cục Thuế quận Hà Đông đã có 43 trường hợp đến cơ quan thuế kê khai và nộp thuế thu nhập cá nhân cho hoạt động chuyển nhượng vốn góp với tổng số tiền thu được là trên 472,5 triệu đồng. Tuy nhiên, con số này không phải là lớn nếu so với khoảng trên 40 dự án với hàng nghìn căn hộ, suất đất nền đang thực hiện trên địa bàn quận Hà Đông?

Dù vậy, theo ghi nhận của PV Báo GĐ&XH thì đây là một trong những đơn vị đã làm tốt việc thu loại thuế chuyển nhượng hợp đồng vốn góp cực kỳ khó khăn này. Còn tại nhiều chi cục thuế khác ở Hà Nội đây là “điệp vụ bất khả thi”. Cụ thể, ông Nguyễn Hữu Hùng, Phó Chi cục trưởng Chi cục thuế Cầu Giấy cho biết, tại Chi cục cũng có một vài trường hợp hỏi về thuế với hợp đồng góp vốn song “đến nay Chi cục vẫn chưa nhận được một hồ sơ nào cho loại chuyển nhượng này”!

Hiện nay theo cơ chế một cửa, với hoạt động chuyển nhượng bất động sản, cá nhân, tổ chức sẽ nộp hồ sơ tại Văn phòng đăng ký đất và nhà ở quận sở tại. Từ đây văn phòng sẽ tập hợp hồ sơ và chuyển sang cơ quan thuế để tính thuế. Tuy nhiên, với hoạt động chuyển nhượng quyền góp vốn, do đây chưa phải là tài sản bất động sản nên thực tế đã gây nhiều lúng túng cho cả người dân, doanh nghiệp và cơ quan thuế, khi người dân không biết nộp hồ sơ ở đâu, quy trình thế nào?

Một cán bộ tại Chi cục Thuế Cầu Giấy cũng cho biết, Thông tư 161 khó thực hiện, đặc biệt với trường hợp chuyển nhượng vốn góp. Có nhiều người hỏi nhưng đa số hỏi miệng, còn hiện cơ quan chưa tiếp nhận hồ sơ cụ thể nào. “Các doanh nghiệp đang vướng và kể cả cơ quan thuế cũng vướng, nhất là về hồ sơ và trình tự”, bà này nói. Ông Đỏ cho biết: “Chúng tôi cũng đã tính đến rắc rối này. Chi cục đã phân loại rõ ràng, với trường hợp chuyển nhượng bất động sản có hồ sơ đầy đủ sẽ qua Văn phòng đăng ký đất và nhà theo cơ chế một cửa. Riêng với trường hợp chuyển nhượng vốn góp thì Chi cục sẽ trực tiếp tiếp nhận và xử lý để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người nộp thuế”.

Theo ông Hùng việc chuyển nhượng vốn góp diễn ra khá phổ biến trong thực tế, tuy nhiên, để quản lý và thu thuế từ hoạt động này thì không hề dễ. “Theo tôi biết, Cục thuế Hà Nội đang xây dựng phương án, để quản lý trên toàn địa bàn thành phố. Cái đó “lọt khe” đối tượng rất nhiều với hoạt động mua đi bán lại trao tay”, ông Hùng nói. Ngay ông Đỏ cũng thừa nhận: “Việc này đơn phương ngành thuế làm rất khó. Vì trong nhiều trường hợp cơ quan thuế không có chức năng thanh, kiểm tra, nên lọt lưới là rất dễ xảy ra”.

Thông tư 161, có thể xem là biện pháp chống thất thu một khoản thuế lớn nhà, đất từ hoạt động chuyển nhượng vốn góp. Nhưng từ đây cũng đặt ra câu hỏi, vậy đã có bao nhiêu tiền thuế đã bị thất thu trong 3 năm qua, kể từ khi nảy sinh chiêu thức huy động vốn dưới dạng “hợp đồng góp vốn”?.


Theo thuvienphapluat

Thuế nhà đất: Phương án nào cũng khó!

Xem hình

Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh giải thích vấn đề tính thuế nhà đất rất phức tạp, rất khó nên phải đưa ra nhiều phương án. Thừa nhận là khó, nhưng Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Hồng Quân cho rằng vẫn có phương án tiệm cận sự công bằng, chính xác hơn hai phương án đã được trình Quốc hội.

Và, Ủy ban Thường vụ Quốc hội vẫn còn nhiều băn khoăn khi thảo luận về dự án Luật Thuế nhà đất, sáng 18/12.

Đánh thuế nhà để hạn chế đầu cơ

Được trình Quốc hội cho ý kiến lần đầu tại kỳ họp thứ sáu, nhiều nội dung tại dự án Luật Thuế nhà đất chưa nhận được sự đồng thuận cao.

Nhiều ý kiến đại biểu chưa tán thành với việc đưa nhà ở vào đối tượng chịu thuế. Vì, nhà là tài sản gắn liền với công sức, sự tích lũy lâu dài của người dân. Việc đánh thuế nhà sẽ dẫn đến tình trạng thuế chồng lên thuế.

Tuy nhiên, tại cuộc họp sáng nay, Thường trực Ủy ban Tài chính – Ngân sách (cơ quan thẩm tra) và cơ quan soạn thảo vẫn thống nhất thu thuế nhà là cần thiết.

Các lý do được đưa ra là thu thuế nhà sẽ góp phần hạn chế tình trạng đầu cơ nhà, nhất là nhà chung cư. Mức thuế suất không cao, nên đa số người dân chưa chịu tác động của thuế. Việc áp dụng thuế đối với nhà là phù hợp với pháp luật của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới…

Hơn nữa, việc áp dụng thuế đối với nhà cũng không dẫn đến tình trạng thuế chồng lên thuế vì bản chất thuế nhà, đất là thuế tài sản mang tính độc lập với các sắc thuế khác, được áp dụng đối với việc sở hữu và sử dụng tài sản, Chủ nhiệm Phùng Quốc Hiển báo cáo.

Tuy nhiên, những lý do này chưa hoàn toàn thuyết phục được các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Nguyễn Văn Thuận kiên trì quan điểm “chưa nên đánh thuế nhà”. Theo ông, việc viện dẫn kinh nghiệm quốc tế cũng cần xem lại. Vì trên thế giới, nhiều nước phát triển cũng chưa thu thuế nhà.

“Nếu định tính thuế nhà cần lấy ý kiến nhân dân trước đã, vì đây là sắc thuế liên quan đến toàn người dân, cần có thời gian chuẩn bị kỹ”, ông Thuận đề nghị.

Phương án nào cũng khó

Đồng thuận đánh thuế nhà song phương án áp dụng thuế lại là vấn đề cơ quan soạn thảo chưa thống nhất được với cơ quan thẩm tra.

Thường trực Ủy ban đề xuất áp dụng phương án chỉ áp dụng thu thuế đối với người sở hữu nhà thứ hai trở lên và với mức thuế suất 0,03%. “Đây là phương án tiếp thu ý kiến của nhiều đại biểu Quốc hội, vì vậy sẽ tạo được sự ủng hộ của đại biểu và dễ thông qua luật”, Chủ nhiệm Hiển nhấn mạnh.

Cơ quan soạn thảo thì cho rằng không nên phụ thuộc vào việc sở hữu một nhà hay nhiều nhà mà nên dựa vào giá trị nhà. Vì thế đề xuất phương án nâng mức khởi điểm của giá trị nhà chịu thuế lên 1 tỷ đồng, thay vì 500 triệu đồng như dự thảo đã trình Quốc hội.

Tuy nhiên, phương án này, theo đánh giá của cơ quan thẩm tra, việc thẩm định nhằm xác định cụ thể giá trị nhà bằng tiền để áp thuế là khá phức tạp.

Bộ trưởng Tài chính Vũ Văn Ninh cũng “than” rằng việc tính thuế rất là khó. Nhưng tư tưởng khi xây dựng luật là mong muốn đại bộ phận người dân có 1 nhà thì không phải nộp thuế.

Tỏ rõ quan điểm nên thu thuế nhà, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Hồng Quân thì cho rằng vẫn có thể có phương án ba, tiệm cận công bằng hơn là kết hợp cả hai phương án này. Tức là đưa ra hạn mức nhà ở theo mét vuông, sau đó kết hợp cả hạn mức và giá trị nhà.

Trưởng ban dân nguyện Trần Thế Vượng vẫn băn khoăn, nếu nói thu thuế nhà khó cũng phải làm nhưng làm không nổi thì làm thế nào. “Chỉ gánh được 50 ký mà cứ giao cho 1 tạ thì chịu thôi”, ông ví von.

Liên quan đến đề nghị xin ý kiến của nhân dân của chủ nhiệm Thuận, Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên yêu cầu mở rộng đối tượng xin ý kiến cho dự thảo luật. Theo Phó chủ tịch phải coi trọng sự ổn định lòng dân chứ không thể chỉ nghiêng về thu thuế.


Theo thuvienphapluat

Liên minh châu Âu cắt giảm thuế nhập khẩu chuối

Xem hình

Liên minh Châu Âu đã phê chuẩn một thỏa thuận cắt giảm thuế đối với nhập khẩu chuối. Quyết định này như một tín hiệu giúp kết thúc cuộc tranh luận thương mại lâu dài nhất của thế giới.

Theo thỏa thuận này, các nhà sản xuất chuối tại Mỹ Latinh sẽ buộc phải tuân theo mức thuế nhập khẩu thấp hơn của EU. Giải pháp này cũng sẽ tạo thêm tính cạnh tranh với các nhà sản xuất tại Châu Phi và Caribe, những người không phải trả thuế. Đồng thời, theo thỏa thuận sẽ được ký trong 6-9 tháng tới này giá chuối có thể giảm tới 12%. Cụ thể, thuế nhập khẩu chuối sẽ được cắt giảm từ 176 Euro/tấn (tương đương 256 USD/tấn) xuống còn 148 Euro/tấn. Những cắt giảm thêm nữa sẽ được thực hiện trên một cơ sở hàng năm so với 7 năm tới xuống mức 114 Euro/tấn.

Thỏa thuận này đã được rất nhiều đại diện thương mại ký tắt tại Geneva vào chiều thứ 3 (15/12). Ông José Manuel Barroso - Chủ tịch của Ủy ban Châu Âu cho biết “Tôi vui mừng rằng chúng ta đã bước đầu tìm thấy một cách để giải quyết những tranh luận về nhập khẩu chuối với thỏa hiệp thuận lợi cho tất cả các bên. Đây là một động lực thúc đẩy quan trọng cho hệ thống đa phương này".

Cuộc tranh luận lâu dài

Thỏa thuận này có khả năng giúp kết thúc các cuộc chiến nhập khẩu chuối khởi đầu từ cách đây 16 năm khi thuế quan EU về nhập khẩu chuối được thiết lập. Trong năm 1975, các nước Caribe cũ đã được đưa ra một hạn ngạch nhập khẩu hào phóng.

Theo phóng viên Nigel Cassidy của Hãng tin BBC quan điểm này có thể giúp các nền kinh tế của các thuộc địa Châu Âu cũ hay các quốc gia phụ thuộc phát triển độc lập không cần nhờ cậy tới hỗ trợ nước ngoài. Mặc dù vậy, các nhà sản xuất chuối Mỹ Latinh cùng với Mỹ từ lâu đã phàn nàn rằng hệ thống này không công bằng. Quan điểm này cũng được Tổ chức thương mại thế giới WTO ủng hộ. Tổ chức này đã từng tuyên bố rằng thuế đánh vào nhập khẩu chuối này là bất hợp pháp.

Tuy không phải là một nhà sản xuất chuối, Mỹ là nơi hoạt động của các nhà sản xuất chuối lớn nhất tại Mỹ Latinh bao gồm Del Monte và Dole.

Khoản bồi thường

Giải pháp này có thể gây bất lợi cho ngành sản xuất chuối tại Châu Phi, Caribe và Thái Bình Dương (được gọi là các nước ACP) - những nơi không trả thuế nhập khẩu cho EU. Nhiều nước trong số này có nền kinh tế phụ thuộc nặng nề vào sản xuất chuối và nhờ vào thuế của EU để đảm bảo tiếp cận thị trường này.

Ông Errol Emmanuel - Giám đốc ủy nhiệm của Dominica Banana Growers Limited phát biểu trước Hãng tin BBC rằng thỏa thuận này sẽ tác động nhiều nhất tới những nông dân nghèo tại các đảo Windward. Ông nói “Những trang trại nhỏ này là thuộc sở hữu gia đình. Bạn có vợ và chồng và có thể là một hay hai người giúp đỡ…họ không có các nguồn lực để cạnh tranh với Doles và Del Montes, những công ty sở hữu những dải đất rộng lớn”.

Thỏa thuận này cũng bao gồm một khoản bồi thường cho Dominica và các nước ACP khác trị giá 200 triệu Euro. Thị trường chuối Châu Âu lớn nhất thế giới với 5.5 triệu tấn nhập khẩu vào năm ngoái.



Theo thuvienphapluat

Đài Loan điều chỉnh thuế thu nhập

Cục Quản lý Lao động ngoài nước vừa có công văn gửi các doanh nghiệp đưa lao động sang Đài Loan, thông báo chính quyền lãnh thổ này vừa điều chỉnh quy định về thuế thu nhập đối với lao động nước ngoài.


Theo đó, kể từ ngày 1-1-2010, lao động nước ngoài cư trú ở Đài Loan dưới 183 ngày/năm có thu nhập từ 1,5 lần lương cơ bản (tương đương 25.920 NT$) trở lên sẽ chịu mức khấu trừ thuế thu nhập hằng tháng là 18%; dưới mức thu nhập này bị khấu trừ 6%. Đối với các trường hợp cư trú từ 183 ngày/năm trở lên, việc tính thuế áp dụng theo năm, với tổng mức khấu trừ thuế thu nhập của năm là 6% trên tổng thu nhập phải chịu thuế của cả năm.

Để hạn chế trường hợp lao động nước ngoài cư trú dưới 183 ngày/năm, quy định còn cho phép chủ sử dụng lao động được phép tạm khấu trừ tiền thuế thu nhập hằng tháng của lao động nước ngoài với mức 6%/tiền lương cơ bản (17.280 NT$/tháng). Sau đó, sẽ căn cứ vào thời gian cư trú và thu nhập thực tế để làm thủ tục hoàn thuế khi đến kỳ hoàn thuế của năm (từ ngày 1 đến 30-5 của năm kế tiếp) hoặc khi người lao động về nước.

Theo N.Duy/NLĐ

Nhận định thị trường chứng khoán ngày 23/12

VCSC cho rằng, đối với những nhà đầu tư không chấp nhận rủi ro cao, có thể chờ đợi cho đến khi Ngân hàng Nhà nước có những điều chỉnh chính sách và việc quản lý dòng tiền vào chứng khoán cởi mở hơn - Ảnh: VNDS.

VnEconomy giới thiệu nhận định của một số công ty chứng khoán về diễn biến thị trường ngày 23/12
VnEconomy giới thiệu nhận định của một số công ty chứng khoán về diễn biến thị trường ngày 23/12.

Chiến lược đầu tư trung và dài hạn gặp nhiều thuận lợi

(Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt - BVSC)

“Trong bối cảnh các thông tin hỗ trợ thị trường chưa thực sự tạo được yếu tố đột biến và thị trường vẫn đang chịu tác động chi phối bởi các yếu tố mang tính ngắn hạn, các nhà đầu tư ngắn hạn có thể sẽ tiếp tục phải chịu thử thách về lòng kiên nhẫn trước khi có thể gia nhập vào thị trường.

Ngược lại, chiến lược đầu tư trung và dài hạn lại đang gặp nhiều thuận lợi khi mặt bằng giá cổ phiếu đã xuống đến mức tương đối thấp và triển vọng tăng trưởng của một số nhóm ngành trong thời gian tới đang được đánh giá cao.

Như vậy, các nhà đầu tư trung và dài hạn có thể tiếp tục chiến lược mua gom từng bước trong những nhịp điều chỉnh của thị trường nhưng cần điều chỉnh và cân đối tỷ trọng cổ phiếu/tiền mặt phù hợp với từng giai đoạn và khả năng chấp nhận rủi ro của mỗi người”.

Tâm lý chung của thị trường hiện vẫn khá lạc quan

(Công ty Cổ phần Chứng khoán Tp.HCM - HSC)

"Việc lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng tăng trong bối cảnh nhu cầu vốn về cuối năm đang dần đạt đến đỉnh điểm và sự biến động trên thị trường tiền tệ đã khiến các nhà đầu tư hôm 22/12 trở nên thận trọng.

Ngược lại, chỉ số CPI tháng 12 của Hà Nội và Tp.HCM được công bố đã giúp dự đoán CPI tháng 12 của cả nước sẽ không tăng cao như dự kiến.

Do đó, tâm lý chung của thị trường hiện tại vẫn khá lạc quan. Sau một số phiên tăng mạnh, thì có thể các nhà đầu tư sẽ chốt lời một chút nhưng chúng tôi vẫn hy vọng thị trường sẽ tăng tiếp trong vài ngày tới. Tuy nhiên, chúng tôi không cho rằng thị trường sẽ tăng liên tiếp (mà sẽ có những phiên giảm xen kẽ). Các nhà đầu tư ngắn và dài hạn nên mua vào khi thị trường giảm trong những ngày tới".

Nhà đầu tư dài hạn vẫn có thể tiếp tục giải ngân

(Công ty Cổ phần Chứng khoán Âu Việt - AVSC)

“Phiên hôm 22/12, trên HOSE được hỗ trợ khá lớn từ việc khối ngoại - giao dịch chiếm đến 13,09% giá trị toàn thị trường - mua ròng đến 177,5 tỷ đồng, đây là giá trị mua cao nhất từ đầu tháng 12.

Khối lượng giao dịch gia tăng đáng kể nhưng khối lượng giao dịch ở mức giá trần là không nhiều. Đến cuối phiên có đến gần 50% cổ phiếu giảm giá, điều này cho thấy áp lực chốt lời là khá rõ, lực cầu vẫn còn khá lớn nhưng dư mua cuối phiên đã không còn mạnh mẽ như những phiên trước.

Chúng tôi cho rằng, tâm lý chốt lời vẫn còn tiếp diễn trong những phiên tới khi cổ phiếu bắt đáy thứ năm tuần trước về tài khoản, đây sẽ là rủi ro cho nhà đầu tư ngắn hạn, nhà đầu tư dài hạn vẫn có thể tiếp tục giải ngân vào các nhóm cổ phiếu tiềm năng”.

Thị trường vẫn còn thiếu những tin tức hỗ trợ đủ mạnh

(Công ty Cổ phần Chứng khoán Bản Việt - VCSC)

“Trước những biến động mạnh của thị trường, sự thận trọng khi tham gia thị trường là tâm lý chung của các nhà đầu tư. Những phiên tăng điểm mạnh vẫn chưa thể tạo cho các nhà đầu tư niềm tin về xu hướng hồi phục bền vững của thị trường.

Yếu tố giá cổ phiếu đã giảm về mức hấp dẫn là lý do chính thuyết phục nhiều nhà đầu tư quay trở lại thị trường. Chiến lược của các nhà đầu tư đang sử dụng tỏ ra rất đơn giản: chốt lời ngay khi có thể. Và do đó, những phiên điều chỉnh tất yếu sẽ xuất hiện chỉ sau một vài phiên tăng nóng.

Thị trường vẫn còn thiếu những tin tức hỗ trợ đủ mạnh để nâng đỡ xu hướng hồi phục. Mặc dù bức tranh kết quả kinh doanh khả quan của các công ty niêm yết trong quý 4 phần nào đã được hé lộ nhưng chúng tôi cho rằng những công bố chính thức về lợi nhuận quý 4 sẽ không có nhiều tác động đến thị trường do đã được phản ánh vào giá trị cổ phiếu.

Hơn nữa, các giới hạn của chính sách tín dụng là yếu tố ngăn cản sự hồi phục của thị trường thông qua việc hạn chế nguồn cung của những dòng tiền mới. Hiện tại, tâm lý phục hồi là yếu tố hỗ trợ tích cực nhất cho thị trường.

Do đó, đối với những nhà đầu tư không chấp nhận rủi ro cao, có thể chờ đợi cho đến khi Ngân hàng Nhà nước có những điều chỉnh chính sách và việc quản lý dòng tiền vào chứng khoán cởi mở hơn”.

* Nhận định thị trường của các công ty chứng khoán được VnEconomy trích dẫn chỉ có giá trị như một nguồn thông tin tham khảo. Các công ty chứng khoán có thể có những xung đột lợi ích đối với các nhà đầu tư khi đưa ra nhận định.-Theo Vneconomy

Monday, 21 December 2009

441 doanh nghiệp thí điểm nộp tờ khai thuế qua mạng Internet

(eFinance Online) - Dự án Xây dựng và triển khai thí điểm hệ thống nộp tờ khai thuế qua mạng Internet được Tổng cục Thuế triển khai nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế trong việc nộp tờ khai thuế một cách nhanh chóng, dễ dàng, giảm thiểu chi phí, thời gian trong kê khai thuế.

Dự án này cũng sẽ khắc phục tình trạng quá tải trong việc nhận tờ khai, đồng thời tiết kiệm chi phí, nguồn lực của cơ quan thuế trong việc tiếp nhận, xử lý và lưu trữ tờ khai thuế.

Với tổng mức đầu tư 1,437 tỷ đồng, dự án này được triển khai thành 3 đợt:

Đợt 1 - từ tháng 8/2009: Lựa chọn 100 doanh nghiệp thuộc Cục Thuế TP.HCM quản lý để thực hiện thí điểm nhằm kiểm thử quy trình, thủ tục, hạ tầng kỹ thuật và hoàn thiện sản phẩm.

Đợt 2 – từ tháng 10/2009: Thí điểm mở rộng cho các doanh nghiệp thuộc Cục Thuế TP.HCM quản lý và tiếp tục thí điểm tại các Cục Thuế Hà Nội, Đà Nẵng, Bà Rịa – Vũng Tàu.

Đợt 3 - từ tháng 12/2009: Thí điểm mở rộng cho các doanh nghiệp thuộc một số chi cục thuế lớn trên địa bàn các tỉnh/thành phố: Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Bà Rịa – Vũng Tàu.

Tính đến thời điểm hiện nay, Tổng cục Thuế đã triển khai dự án tại 4 tỉnh/thành phố nêu trên với sự tham gia của 411 doanh nghiệp.

Các doanh nghiệp thí điểm đã thực hiện khai thuế cho 4 kỳ thuế (tháng 7 – 8 – 9- 10/2009) của các sắc thuế Giá trị gia tăng, Thu nhập doanh nghiệp, Thu nhập cá nhân, Tiêu thụ đặc biệt, Tài nguyên. Để khuyến khích các doanh nghiệp tham gia hình thức kê khai thuế nhiều tiện ích này, Tổng cục Thuế đã hỗ trợ doanh nghiệp bằng cách miễn phí thiết bị chứng thực chữ ký số và phí sử dụng dịch vụ đến hết năm 2009.

(Bình Minh)

Lãi suất bình quân qua đêm tăng 0,66%/năm, lên 10,71%/năm

Lãi suất bình quân qua đêm tăng 0,66%/năm, lên 10,71%/năm

So với tuần từ 4-10/12, doanh số giao dịch liên ngân hàng tuần từ 11-17/12 tăng lên đối với cả VND và USD (tăng 8.507 tỷ đồng và 580 triệu USD).


Thống kê từ NHNN, doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng tuần qua đạt xấp xỉ 120.350 tỷ VND và 2.033 triệu USD, bình quân đạt khoảng 24.070 tỷ VND và 406 triệu USD/ngày.

Ngân hàng Nhà nước cho biết, so với tuần trước, doanh số giao dịch tuần từ 11-17/12 này có sự tăng lên đối với cả VND và USD (tăng 8.507 tỷ đồng và 580 triệu USD).

Doanh số giao dịch kỳ hạn qua đêm và 1 tuần chiếm tỷ trọng lớn nhất; trong đó tổng doanh số giao dịch kỳ hạn 1 tuần là 55.293 tỷ VNĐ, chiếm 46% so với tổng doanh số giao dịch.

Lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng tuần từ 11-17/12 có xu hướng tăng so với tuần trước đó và mức lãi suất bình quân của tất cả các kỳ hạn đã tăng lên mức trên 10%/năm.

Mức dao động của các kỳ hạn từ 0,24% đến 1,08%/năm, trong đó lãi suất bình quân kỳ hạn 6 tháng có mức tăng lớn nhất. Lãi suất cho vay thấp nhất là 5,00%/năm; lãi suất cho vay cao nhất là 12%/năm (không tính lãi suất không kỳ hạn).

Lãi suất bình quân qua đêm tuần từ 11-17/12 ở mức 10,71%/năm, tăng 0,66%/năm so với kỳ trước; lãi suất bình quân các kỳ hạn còn lại đều từ 11,30%/năm trở lên. Riêng lãi suất bình quân kỳ hạn 1 tuần là 11,66%/năm (đây là kỳ hạn có doanh số phát sinh lớn nhất); lãi suất bình quân kỳ hạn 12 tháng là 12%/năm .

So với tuần trước (4-10/12), lãi suất giao dịch bình quân bằng USD có xu hướng giảm đối với các kỳ hạn ngắn và tăng ở các kỳ hạn dài (3 tháng đến 12 tháng). Lãi suất bình quân qua đêm là 0,85%/năm (giảm 0,09% so với kỳ trước). Lãi suất các kỳ hạn còn lại dao động ở mức 1,53% đến 3,82%/năm, không phát sinh giao dịch kỳ hạn 6 tháng.

Lãi suất bình quân thị trường liên ngân hàng tuần từ 11-17/12 cụ thể như sau:

Đơn vị: %/năm

Kỳ hạn

Qua đêm

1 tuần

2 tuần

1 tháng

3 tháng

6 tháng

12 tháng

VND

10,71

11,66

11,30

11,64

11,69

11,58

12,00

USD

0,85

1,53

1,82

2,79

2,26

-

3,82


Về ngoại hối, trong tuần qua, Ngân hàng Nhà nước đánh giá thị trường ngoại hối đã có những chuyển biến tích cực hơn.

Theo báo cáo của các ngân hàng thương mại, lượng ngoại tệ bán ra từ các tổ chức kinh tế bước đầu có xu hướng tăng. Hiện tỷ giá niêm yết mua, bán VND/USD của các ngân hàng thương mại phổ biến quanh mức 18.475/18.479 đồng/USD.

Ngân hàng Nhà nước cho biết đang tiếp tục theo dõi sát diễn biến thị trường, điều hành tỷ giá tương đối ổn định, áp dụng các biện pháp can thiệp thích hợp để thị trường ngoại hối hoạt động tích cực hơn.

V.Minh
Theo SBV

TP HCM: Phí cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cá nhân là 25.000 đồng/giấy

TP HCM: Phí cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cá nhân là 25.000 đồng/giấy

Phí cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cá nhân, hộ gia đình tại các quận là 25.000 đồng/ giấy; đối với các tổ chức là 100.000 đồng/giấy.


HĐND TPHCM vừa ban hành Nghị quyết về thu lệ phí cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trên địa bàn TP HCM.

Phí cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cá nhân, hộ gia đình tại các quận là 25.000 đồng/ giấy; đối với các tổ chức là 100.000 đồng/giấy.

Khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất và giấy chứng nhận chỉ có tài sản gắn liền với đất, đối với cá nhân, hộ gia đình thu 100.000 đồng/giấy, đối với tổ chức thu 200.000 đồng/giấy cho diện tích dưới 200.000 m2, 350.000 đ/giấy cho diện tích từ 500 đến dưới 1.000 m2 và 500.000 đ/giấy cho diện tích trên 1.000 m2.

Mức thu phí chứng nhận đăng ký thay đổi chỉ có quyền sử dụng đất sau khi cấp giấy chứng nhận đối với cá nhân và hộ gia đình trên địa bàn quận là 15.000 đồng/lần; trên địa bàn huyện là 7,500 đồng/lần. Mức thu đối với tổ chức là 20.000 đồng/lần.

Mức thu phí chứng nhận đăng ký thay đổi có quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất và đăng ký thay đổi chỉ có tài sản gắn liền với đất sau khi cấp giấy chứng nhận là 50.000 đồng/lần

Cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với cá nhân, hộ gia đình trên địa bàn quận là 20.000 đồng/lần, trên địa bàn huyện là 10.000 đồng/lần; đối với tổ chức là 20.000 đồng/lần.

Mức thu phí cấp lại giấy chứng nhận có đăng ký thay đổi tài sản trên đất là 50.000 đồng/lần.

Đơn vị thu lệ phí được để lại 10% lệ phí thu được từ việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chứng nhận đăng ký thay đổi chỉ có quyền sử dụng đất và 100% lệ phí thu được từ các loại thu lệ phí khác

K.T

Theo UBND TP HCM

Hãng phát thanh hàng đầu của Mỹ xin bảo hộ phá sản

picture

Citadel có 165 kênh FM và 58 kênh AM, sở hữu tài sản 1,4 tỷ USD, trong khi gánh khoản nợ lên tới 2,5 tỷ USD.

Hãng phát thanh lớn thứ ba của Mỹ là Citadel Broadcasting vừa nộp đơn xin bảo hộ phá sản lên toàn án nước này

Hãng phát thanh lớn thứ ba của Mỹ là Citadel Broadcasting vừa nộp đơn xin bảo hộ phá sản lên toàn án nước này. Doanh thu quảng cáo sụt giảm là lý do khiến lĩnh vực phát thanh tại Mỹ đang phải đương đầu với những thách thức lớn.

Sau khi đàm phán với 60% số chủ nợ có thứ hạng ưu tiên cao, Citadel đã đệ đơn phá sản theo Chương 11 của Luật phá sản Mỹ. Hãng này có 165 kênh FM và 58 kênh AM, sở hữu tài sản 1,4 tỷ USD, trong khi gánh khoản nợ lên tới 2,5 tỷ USD.

Theo thỏa thuận với các chủ nợ, Citadel sẽ được xóa nợ số tiền vay 1,4 tỷ USD. Số nợ còn lại sẽ được trả cho các chủ nợ dưới dạng cổ phiếu mới trong công ty sau khi tái cơ cấu.

Dự kiến, trong và sau khi hoàn tất quá trình phá sản, Citadel vẫn sẽ duy trì hoạt động bình thường. Giám đốc điều hành của công ty, ông Farid Suleman, tuyên bố, họ sẽ nỗ lực để thúc đẩy quá trình tái cơ cấu diễn ra nhanh nhất có thể.

Cùng với các đối thủ khác trong ngành phát thanh tại Mỹ, Citadel đang phải đối mặt với sự sa sút nhanh chóng của doanh thu quảng cáo. Trong quý 3 vừa qua, doanh thu của hãng này sụt mất 14%, còn có 183 triệu USD. Mức lỗ của Citadel trong quý là 21 triệu USD, tương đương 0,08 USD/cổ phiếu, so với mức lãi 0,1 USD/cổ phiếu cùng kỳ năm ngoái.

Citadel cũng là chủ sở hữu của đài phát thanh ABC sau khi vay nợ để mua đài này từ hãng Walt Disney vào năm 2006.

(Theo Reuters)-Vneconomy

Hà Nội chi 1.000 tỷ đồng lập Quỹ phát triển đất

picture

Cùng với việc lập Quỹ phát triển đất cấp thành phố, vào đầu tháng 10 vừa qua, thành phố cũng đã thí điểm thành lập Trung tâm Phát triển quỹ đất huyện Ba Vì và huyện Mê Linh.

UBND thành phố Hà Nội vừa quyết định thành lập Quỹ phát triển đất cấp thành phố

UBND thành phố Hà Nội vừa quyết định thành lập Quỹ phát triển đất cấp thành phố.

Theo đó, thành phố giao Sở Tài chính bố trí 1.000 tỷ đồng ngay từ dự toán đầu năm 2010 từ nguồn thu tiền sử dụng đất cho Quỹ phát triển đất.

Thành phố cũng chỉ đạo, trong năm tới, nếu có nguồn tăng thu thì bổ sung tương ứng bằng 30% so với tổng nguồn thu tiền sử dụng đất để thực hiện các nhiệm vụ về giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất sạch nhằm tạo điều kiện cho thành phố chủ động trong việc giao nhà, đất tái định cư.

Đồng thời, để thống nhất quản lý theo chính sách chung của Chính phủ, Hà Nội cũng quyết định chuyển số kinh phí 50 tỷ đồng đã bố trí cho Quỹ hỗ trợ nông dân bị thu hồi đất vào Quỹ phát triển đất và chấm dứt hoạt động của Quỹ hỗ trợ nông dân bị thu hồi đất theo Nghị quyết 04 ngày 15/4/2008 của Hội đồng nhân dân thành phố.

Cùng với việc lập Quỹ phát triển đất cấp thành phố, vào đầu tháng 10 vừa qua, thành phố cũng đã thí điểm thành lập Trung tâm Phát triển quỹ đất huyện Ba Vì và huyện Mê Linh.

Chức năng của 2 trung tâm trên là tổ chức thực hiện việc bồi thường hỗ trợ, tái định cư đối với trường hợp Nhà nước thu hồi đất sau khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được cấp có thẩm quyền phê duyệt và quản lý quỹ đất thuộc khu vực đô thị và khu vực đã có quy hoạch phát triển đô thị mà thành phố đã thu hồi nhưng chưa giao, chưa cho thuê trên địa bàn huyện.
Theo Vneconomy

Chứng khoán ngày 21/12: Hai sàn cùng khởi sắc

Hai sàn lên điểm mạnh mẽ, tâm lý thị trường đang có chuyển biến tích cực.

Thị trường có tiếp phiên khởi sắc khi chứng khoán đồng loạt tăng giá mạnh, dư bán trắng trơn và thế găm hàng củng cố
Thị trường có tiếp phiên khởi sắc khi chứng khoán đồng loạt tăng giá mạnh, dư bán trắng trơn và thế găm hàng củng cố.

Mở cửa tuần giao dịch mới, VN-Index tăng mạnh 3,09%, thêm 13,74 điểm trong đợt 1. Một sự khởi đầu cởi mở; sự hứng khởi đang thay thế dần tâm lý thận trọng và hoài nghi. Sức cầu tăng tới trên 65% so với những phiên ảm đạm vừa qua là một dẫn chứng cụ thể.

Ở phiên liền trước, khối lượng giao dịch bùng nổ và có vẻ như những ai quyết bán đã bán. Còn sáng nay, thế găm hàng được củng cố từ khá sớm, ngay cả những “hiện tượng” cung lớn đè giá ở phiên liền trước như PVF, FPT, HPG, DPM, hay VIC và VPL. Tại hầu hết những thành viên này, kết thúc phiên, khối lượng chỉ còn từ 1/3 – 1/4 so với phiên liền trước, giá đồng loạt lên trần.

Toàn phiên trên HOSE, khối lượng đã giảm tới 35% so với phiên cuối tuần qua, còn gần 35,2 triệu đơn vị với 1.281 tỷ đồng giá trị. Trên HNX, khối lượng giảm nhẹ còn 14,85 triệu cổ phiếu với 406,7 tỷ đồng giá trị.

Về mẫu hình kỹ thuật, diễn biến của chỉ số VN-Index hôm nay cũng khẳng định cho một hướng tiến vững chắc. Chỉ số tăng mạnh dần về cuối phiên và đóng cửa ở mức cao nhất trong ngày. Trong phiên, một sóng giảm đầu giờ khớp lệnh liên tục đưa chỉ số về mức 452,55 điểm, thấp hơn mức mở cửa, nhưng không tạo sự “run tay” đáng kể để tăng cung. 24 phút của vùng thấp nhất này cũng chỉ có khoảng 6 triệu đơn vị với khoảng 300 tỷ đồng được chuyển nhượng.

Cung cạn, cầu tăng đẩy giá chứng khoán đồng loạt tăng mạnh. VN-Index bật nhanh về cuối phiên và chính thức lập lại mốc 460 điểm chỉ trong 20 phút nối tiếp.

Diễn biến trên tạo một môi trường “lý tưởng” để kiểm chứng động thái của khối đầu tư nước ngoài. Cuối phiên liền trước, lượng hàng xả rất mạnh từ khối ngoại được xem là nguyên nhân chính tạo cú “sập” tại nhiều cổ phiếu lớn, họ có phiên bán ròng rất mạnh với 179,84 tỷ đồng giá trị. Nhưng hôm nay, trong phiên thảnh thơi bán giá cao, lượng cung từ khối này đã nén lại chỉ với gần 1,4 triệu đơn vị; trong khi đó hướng mua ròng được nối lại với gần 48 tỷ đồng. Trong phiên găm hàng rõ nét này, nhà đầu tư nước ngoài muốn gia tăng giá trị mua ròng cũng khó!

Một xu hướng đi lên mạnh đang khẳng định. Nhưng trước mắt thị trường cần “test” áp lực của lượng hàng bắt đáy thành công thứ Năm tuần trước về tài khoản. Tuy nhiên, lượng bắt đáy này không quá lớn trong khi thị trường đang có kỳ vọng đi lên nối tiếp, thể hiện ở sức cầu và găm cung hiện nay.

Tâm lý nhà đầu tư đang được củng cố và chuyển biến tích cực. Dù giá trị này ít nhiều vẫn thử thách tại một số cổ phiếu lớn. Có thể xét ở điển hình VCG.

So với mức giá cao trong tháng 10, giá VCG đã giảm khoảng 35%. Mức giá hiện tại đang hấp dẫn lực cầu, cụ thể ở phiên này là lượng canh mua giá trần gần 1 triệu đơn vị duy trì suốt giờ giao dịch. Dù thế, phải mất hơn 40 phút giá VCG mới khẳng định được sự bền vững. Một điểm đã thể hiện từ phiên trước là khi giá cổ phiếu này nao núng, lệnh lô lớn lại vào cuộc để tạo một “bệ đỡ” vững chắc. Kết thúc phiên, VCG cũng là một trong số ít cổ phiếu lớn có khối lượng duy trì ở mức cao, với hơn 1,4 triệu đơn vị, nguồn cung bị quét sạch và còn dư mua giá trần trên 800.000 đơn vị.

Tương tự, có thể thấy tại ACB, mức giá cao nhất 38.800 đồng không giữ được kết thúc phiên, dù cuối phiên xuất hiện lệnh khủng đẩy ở mức tăng 900 đồng/cổ phiếu. Giá ACB cũng như khối ngân hàng nói chung tách nhóm và dừng ở mức tăng khiêm tốn. Giá trị hỗ trợ có ý nghĩa nhất của khối này không phải hiện nay mà đã thể hiện ở giữa tuần trước.

Qua phiên này thị trường đã tạo một khoảng cách khá lớn so với mốc 420 điểm, xu hướng đi lên đang thể hiện. Nhưng vẫn khó để khẳng định lực đẩy này xuyên suốt trong những phiên sắp tới. Bởi dự kiến trong tuần những thông tin kinh tế vĩ mô của cả năm như CPI, FDI, GDP, tình hình xuất nhập khẩu… sẽ lần lượt được công bố.

Câu hỏi về các chỉ số vĩ mô vẫn còn nằm trong dự tính. Và kết quả của nó không thể chỉ thay đổi từ cuối tuần qua đến nay để tác động tích cực đến thị trường. Nhưng thay vào đó, thay đổi lớn là về tâm lý. Một giá trị có thể xét đến là khi thị trường có tâm lý tốt, tin xấu nếu xuất hiện có thể được “pha loãng” tác động, tin tốt dễ hấp thụ hơn. Và qua chuyển biến này, một lần nữa thị trường cho thấy một nguồn tiền lớn vẫn thường trực chờ vào cuộc.

Tất nhiên, thời điểm này vẫn còn những hoài nghi, nhất là với những ai đã cắt lỗ đúng đáy vừa qua (ngắn hạn) và không “chịu” thay đổi các suy tính cũ.
Theo Vneconomy

Ngẫm về suy thoái kinh tế thế giới

picture

Liệu kinh tế thế giới có dịch chuyển trơn chu từ bình ổn sang phục hồi bền vững hay không còn phụ thuộc vào việc những khác biệt giữa hai nhóm nền kinh tế sẽ được giải quyết ra sao.

Suy thoái kinh tế thế giới đã không nghiêm trọng như người ta tưởng, nhưng hậu quả của nó lại có thể đáng sợ hơn nhiều người nghĩ

Suy thoái kinh tế thế giới đã không nghiêm trọng như người ta tưởng, nhưng hậu quả của nó lại có thể đáng sợ hơn nhiều người nghĩ.

Đó là nhận định được đưa ra trong bài viết “Great stabilisation” (tạm dịch: “Đại bình ổn hóa”), nhìn lại suy thoái kinh tế thế giới năm qua và triển vọng phục hồi sắp tới, đăng trên tờ Economist.

VnEconomy xin giới thiệu với độc giả bản lược dịch bài viết này.

Năm 2009 được nhiều người xem như một năm suy thoái nghiêm trọng của kinh tế toàn cầu, trong đó sản lượng của nền kinh tế thế giới trải qua sự sụt giảm nghiêm trọng nhất kể từ Chiến tranh Thế giới thứ 2 tới nay. Nhưng có lẽ, sẽ là hợp lý hơn nêu coi 2009 là năm bình ổn trở lại của kinh tế thế giới, vì năm nay không chỉ đáng nhớ vì tốc độ sụt giảm chóng mặt của sản lượng, mà còn vì một thảm họa kinh tế đã được ngăn chặn một cách ngoạn mục.

Cách đây 12 tháng, cơn hoảng loạn sau vụ phá sản của Ngân hàng Đầu tư Lehman Brothers đã đẩy thị trường tài chính toàn cầu tới mép vực sụp đổ. Các hoạt động kinh tế khắp thế giới, từ sản xuất công nghiệp tới ngoại thương, lao dốc với tốc độ nhanh hơn ở thời kỳ Đại khủng hoảng đầu thập niên 1930.

Tuy nhiên, lần này, sự sụt giảm trên đã được ngăn chặn chỉ trong vòng vài tháng. Những nền kinh tế đang nổi lên đã tăng tốc đầu tiên và mạnh hơn cả. Sau một thời gian ngắn đình trệ, GDP của Trung Quốc đã tăng trưởng 7,9% so với cùng kỳ năm trước trong quý 2 và tăng 8,9% trong quý 3 vừa qua. Đến giữa năm, những nền kinh tế lớn, giàu có của thế giới, ngoại trừ Anh và Tây Ban Nha, đã bắt đầu tăng trưởng trở lại. Tới thời điểm này, trên thế giới hiện chỉ còn một vài nền kinh tế như Latvia và Ireland là vẫn còn chưa thoát khỏi vòng vây của suy thoái.

Tuy nhiên, những thiệt hại mà suy thoái đã gây ra cho kinh tế thế giới là không hề nhỏ. Tỷ lệ thất nghiệp bình quân của các nền kinh tế trong Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) là gần 9%. Tại Mỹ, nơi suy thoái bắt đầu sớm hơn các nơi khác, đội ngũ thất nghiệp đã tăng gấp đôi lên 10%. Tại một số quốc gia, kết quả của tiến trình giảm nghèo kéo dài nhiều năm đã trở về con số 0 khi mà tầng lớp nghèo nhất chịu tác động tiêu cực cùng lúc của sự suy giảm tăng trưởng kết hợp với giá thực phẩm cao.

Mặc dù vậy, nhờ sự vững vàng của những nền kinh tế lớn và đông dân như Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia, nhóm các nền kinh tế đang nổi lên đã chống chọi không tồi với lần suy thoái này nếu so sánh với những gì đã diễn ra trong lần suy thoái 1991. Đối với nhiều người trên thế giới, lần suy thoái này đã không quá khủng khiếp.

Nhưng điều này không phải tự nhiên mà có. Đó là kết quả của những động thái phản ứng lớn nhất, rộng nhất và nhanh nhất từng có trong lịch sử của các chính phủ. Những nhà băng mấp mé bờ vực phá sản đã được bao bọc bằng hàng trăm tỷ USD tiền thuế của dân. Các ngân hàng trung ương đua nhau hạ lãi suất, các ngân hàng trung ương lớn tăng mạnh giá trị bảng cân đối kế toán. Các chính phủ trên toàn cầu tung ra những gói kích thích kinh tế lớn.

Những biện pháp này đã giúp ngăn chặn sự hoảng loạn, vực dậy hệ thống tài chính và bù đắp lại sự sa sút nhu cầu của khu vực tư nhân. Nếu không có những giải pháp như vậy, Đại suy thoái 1930 rất có thể đã lặp lại.

Nhưng mọi sự tốt đẹp mới chỉ dừng ở đó. Điều đáng ngại hiện nay là quá trình bình ổn trở lại của kinh tế thế giới vẫn còn rất mong manh, một mặt vì nhu cầu toàn cầu còn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của các chính phủ, mặt khác vì chính sách tài khóa mở rộng dù đã ngăn chặn được những rắc rối cũ, nhưng lại tạo nguồn cho những bất ổn mới.

Giá nhà đất vẫn suy giảm tại đa số các thị trường, việc nước Áo cách đây ít ngày quốc hữu hóa ngân hàng Hypo Group cho thấy, hệ thống tài chính thế giới chưa hết căng thẳng. Những bằng chứng rõ nét về sự thanh công, chẳng hạn việc các ngân hàng lớn của Mỹ sớm trả lại tiền cứu trợ của Chính phủ, có thể khiến người ta dễ dàng quên mất rằng, sự phục hồi kinh tế vẫn còn đang phải dựa trên hoạt động chi tiêu công.

Nếu bỏ qua những tác động tạm thời của hoạt động gia tăng sản xuất để tăng hàng tồn kho của các doanh nghiệp, thì phần nhiều của sự phục hồi nhu cầu toàn cầu là kết quả của chi tiêu công. Hoạt động gia tăng hàng tồn kho đã giúp thúc đẩy sự phục hồi tại các nền kinh tế mới nổi, trong khi chỉ có thể ngăn chặn sự trở lại của suy thoái tại nhiều nền kinh tế giàu có.

Sự khác biệt như vậy giữa các nền kinh tế phát triển và đang nổi lên trong tiến trình phục hồi sẽ còn tiếp diễn. Nhu cầu tại các nước giàu sẽ vẫn còn yếu ớt, đặc biệt là ở các quốc gia có mức vay nợ cao trong các hộ gia đình và hệ thống ngân hàng nhiều rạn nứt.

Tỷ lệ nợ so với thu nhập của các hộ gia đình ở Mỹ hiện chỉ thấp hơn mức đỉnh chút ít và cao hơn khoảng 30% so với thời điểm cách đây một thập kỷ. Các hộ gia đình ở Anh và Tây Ban Nha vẫn chưa giải quyết được gì đáng kể tình hình nợ nần, nên khả năng chi tiêu cá nhân còn bị kìm hãm trong thời gian tới là rất cao. Thêm vào đó, với gánh nặng nợ nần gia tăng, chính phủ các nước giàu sẽ gặp khó trong việc vay mượn thêm để bù đắp cho sự sa sút của nhu cầu tư nhân.

Do vậy, sự tương phản với các nền kinh tế đang nổi lên sẽ càng rõ nét hơn. Các nhà đầu tư gần đây đã lo lắng về nguy cơ vỡ nợ của Hy Lạp, và thậm chí là cả một số quốc gia khác trong khu vực sử dụng đồng Euro. Thậm chí cả Anh và Mỹ cũng có thể phải đối mặt với mức chi phí vay nợ gia tăng.

Trong khi đó, những nền kinh tế mới nổi lên lại đương đầu với thách thức hoàn toàn ngược lại: rủi ro bong bóng tài sản xuất hiện khi chính phủ lựa chọn, hoặc buộc phải lựa chọn, việc duy trì chính sách tài khóa và tiền tệ nới lỏng trong một thời gian quá dài. Chính sách tiền tệ nới lỏng tại các nước giàu khiến các nền kinh tế mới nổi khó thực hiện thắt chặt, vì nếu làm vậy, họ sẽ càng thu hút các dòng vốn đầu cơ từ nước ngoài.

Liệu kinh tế thế giới có dịch chuyển trơn chu từ bình ổn sang phục hồi bền vững hay không còn phụ thuộc vào việc những khác biệt nói trên giữa hai nhóm nền kinh tế sẽ được giải quyết ra sao.

Một số lời giải cho bài toán này không khó tìm. Chẳng hạn, nếu Trung Quốc tăng tỷ giá Nhân dân tệ, nền kinh tế của nước này sẽ cân bằng hơn, đồng thời giảm áp lực đối với các nền kinh tế mới nổi khác. Nếu chính phủ các nước giàu đưa ra được kế hoạch khả thi cho việc cắt giảm chi tiêu tài khóa trong trung hạn, thì rủi ro về việc tăng lãi suất trong dài hạn cũng sẽ giảm bớt.

Tuy nhiên, những đánh đổi tất yếu sẽ xảy ra. Thắt chặt tài khóa ở thời điểm này sẽ chặn đứng sự phục hồi kinh tế của các nước giàu. Chính sách tiền tệ thả lỏng ở Mỹ tốt cho kinh tế Mỹ, nhưng sẽ làm căng thẳng thêm những thách thức mà các nền kinh tế mới nổi đang đối mặt.

Đó là lý do tại sao các nhà hoạch định chính sách đang đứng trước những khó khăn lớn về mặt kỹ thuật trong việc rút lui khỏi các kế hoạch kích thích tăng trưởng.

Tệ hơn, những thách thức này xảy đến với các nhà hoạch định chính sách trên một bức màn chính trị u ám. Việc nước Anh mới đây tuyên bố đánh thuế vào tiền thưởng của ngành ngân hàng đã cho thấy, chính sách tài khóa tại các nước giàu có nguy cơ bị ảnh hưởng mạnh bởi sự bất bình gia tăng của dân chúng đối với các ông chủ nhà băng và các gói giải cứu.
Tại Mỹ, sự độc lập của Cục Dự trữ Liên bang (FED) đang đối mặt áp lực phải giảm bớt từ phía Quốc hội. Tỷ lệ thất nghiệp cao cũng đồng nghĩa với nguy cơ gia tăng xung đột thương mại giữa các quốc gia, khi mà các nước tìm cách bảo vệ thị trường việc làm của mình.

Có thể rút ra điều gì từ tất cả thực trạng trên? Những người có quan điểm bi quan thì đề phòng mọi loại cú sốc có thể xảy ra trong năm 2010, từ khủng hoảng nợ công (giả sử Hy Lạp vỡ nợ) tới sự lan tràn của chủ nghĩa bảo hộ. Dễ xảy ra hơn cả là những sự việc kiểu như lợi suất trái phiếu tăng mạnh, hay những quyết định tài khóa “thiển cận” (chẳng hạn như đánh thuế vào các giao dịch tài chính), hoặc đình công đòi tăng lương...

Rõ ràng, lúc này vẫn còn là thời điểm quá sớm để ăn mừng.

(Theo Economist)-Vneconomy

Nhận định thị trường chứng khoán ngày 22/12

BVSC cho rằng, nhiều khả năng thị trường sẽ có diễn biến giằng co trong một vài phiên tới khi các nhà đầu tư đã mua ở vùng đáy thực hiện chốt lời ngắn hạn - Nguồn: VNDS.

VnEconomy giới thiệu nhận định của một số công ty chứng khoán về diễn biến thị trường ngày 22/12
VnEconomy giới thiệu nhận định của một số công ty chứng khoán về diễn biến thị trường ngày 22/12.

Thị trường sẽ tiếp tục tăng điểm

(Công ty Cổ phần Chứng khoán Âu Việt - AVSC)

“Sau một phiên bán mạnh thì hôm 21/12 nhà đầu tư nước ngoài lại quay sang mua ròng ở mức khiêm tốn là 58,5 tỷ đồng trên cả hai sàn.

Trong 3 phiên giao dịch vừa qua, cả hai chỉ số tăng rất đáng kể trong khi hiện tại tình hình kinh tế vĩ mô không có thêm nhiều thông tin mới.

Chúng tôi cho rằng sự tăng điểm trong những ngày qua phần lớn là do tâm lý nhà đầu tư khá an tâm khi VN-Index chạm mốc 430, và gần những ngày cuối năm, nhiều người tin rằng dòng tiền vào thị trường sẽ tăng lại khi các ngân hàng quay trở lại cho vay vào đầu năm 2010.

Theo thống kê của chúng tôi, trong 3 phiên giao dịch qua có đến 56% số cổ phiếu cả hai sàn tăng giá hơn 10%. Do đó, trong một vài phiên tới nếu thị trường tiếp tục tăng điểm thì lợi nhuận sẽ tăng cao hơn, lúc này áp lực chốt lời sẽ tăng cao. Chúng tôi cho rằng, mức kháng cự 480 điểm là khá mạnh, vì mức này sẽ cho thấy xu hướng giảm của thị trường có thực sự có bị phá vỡ hay không.

Chúng tôi dự báo, phiên giao dịch ngày 22/12 thị trường tiếp tục tăng điểm, tuy nhiên, những phiên cuối tuần sẽ có sự điều chỉnh giảm. Nhà đầu tư nên tránh đua mua cổ phiếu bằng mọi giá”.

Đà tăng điểm của thị trường chưa đủ vững chắc

(Công ty Cổ phần Chứng khoán Bản Việt - VCSC)

“Đà tăng điểm của thị trường chưa đủ vững chắc khi vẫn còn khá nhiều thông tin vĩ mô sắp được công bố như tốc độ tăng của chỉ số CPI tháng 12, tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu và sự cải thiện trong tính thanh khoản của thị trường.

Chỉ còn 10 ngày nữa thì năm tài chính 2009 sẽ kết thúc. Đây là thời điểm khá quan trọng cho các quỹ đầu tư xác định và báo cáo giá trị NAV của mình cũng như liên quan đến việc trích lập thêm hay hoàn nhập dự phòng đầu tư tài chính của nhiều doanh nghiệp khác.

Chúng tôi mong đợi vào các chuyển biến tích cực hơn cho thị trường vào các phiên giao dịch cuối cùng của năm. Tuy vậy, thị trường đã tăng nóng và mạnh trong 2 phiên vừa qua nên sẽ khó có thể tiếp tục giữ vững đà tăng này mà thay vào đó sẽ là một vài phiên điều chỉnh.

Do đó, nhà đầu tư có thể tận dụng các phiên điều chỉnh này để tham gia thị trường, lựa chọn những cổ phiếu tốt và thuộc những nhóm ngành tiềm năng trong năm 2010 để đón đầu đợt sóng mới trong năm mới”.

Trong ngắn hạn thị trường sẽ tiếp tục tăng

(Công ty Cổ phần Chứng khoán Tp.HCM - HSC)

"Do sắp kết thúc năm nên hiện các tổ chức (đầu tư) đang muốn làm đẹp báo cáo tài chính của mình. Và với việc một phần cổ phiếu cần phải giải chấp đã được bán ra thì áp lực khiến thị trường đi xuống mà chúng ta chứng kiến trong mấy tuần gần đây rõ ràng hiện tại đã giảm xuống.

Và quan trọng hơn cả là việc VND có vẻ đã tương ổn định mặc dù tính thanh khoản vẫn còn thấp. Và do nguy cơ bùng phát lạm phát nên dù sao đi nữa thì trước mắt có thể lãi suất sẽ vẫn đứng ở mức như hiện tại. Tất cả điều này hàm ý rằng bức tranh thị trường sẽ có phần sáng sủa hơn so với tuần trước. Nhưng điều này không có nghĩa là mọi khó khăn đã qua đi mà chỉ hàm ý rằng tình hình không quá bi quan và phần lớn tác động tiêu cực đã được phản ánh vào giá (cổ phiếu).

Dựa trên nhận định trên, chúng tôi cho rằng trong ngắn hạn thị trường sẽ tiếp tục tăng. Còn xét về trung hạn, thì thị trường đã tìm được mốc hỗ trợ mạnh tại mức thấp của phiên giao dịch ngày thứ 5 tuần trước.

Hiện tại, các nhà đầu tư ngắn hạn có thể kỳ vọng gặt hái lợi nhuận trong vài phiên tới. Chúng tôi cho rằng CPI tháng 12 sẽ sớm được công bố và dù chỉ số này sẽ tăng cao so với tháng trước thì điều này cũng sẽ không tác động quá tiêu cực tới thị trường".

Thị trường sẽ giằng co trong một vài phiên tới

(Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt - BVSC)

“Sau một giai đoạn sụt giảm, thị trường đã có 2 phiên hồi phục khá mạnh đi kèm với sự cải thiện nhẹ về mặt thanh khoản. Mặc dù vậy, vẫn còn quá sớm để khẳng định xu thế tăng đã quay trở lại với VN-Index.

Tính thanh khoản của thị trường dù đã được cải thiện song vẫn duy trì ở mức trung bình thấp. Bên cạnh đó trong ngắn hạn, ngoài các thông tin về kết quả kinh doanh của một số doanh nghiệp, thị trường không có những thông tin hỗ trợ mang tính đột biến.

Vì vậy, nhiều khả năng thị trường sẽ có diễn biến giằng co trong một vài phiên tới khi các nhà đầu tư đã mua ở vùng đáy thực hiện chốt lời ngắn hạn.

Với diễn biến hiện nay, chúng tôi chưa đưa ra khuyến nghị giải ngân đối với nhà đầu tư ngắn hạn. Nhà đầu tư trung và dài hạn có thể tiếp tục xem xét giải ngân khi thị trường có những phiên điều chỉnh”.

* Nhận định thị trường của các công ty chứng khoán được VnEconomy trích dẫn chỉ có giá trị như một nguồn thông tin tham khảo. Các công ty chứng khoán có thể có những xung đột lợi ích đối với các nhà đầu tư khi đưa ra nhận định.
Theo Vneconomy

Lãi suất liên ngân hàng có xu hướng tăng

picture

Trong tuần, doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng đạt xấp xỉ 120.350 tỷ VND và 2.033 triệu USD, bình quân đạt khoảng 24.070 tỷ VND và 406 triệu USD/ngày - Ảnh: Quang Liên.

Ngân hàng Nhà nước cho biết, lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng tuần qua có xu hướng tăng so với tuần trước

Ngân hàng Nhà nước cho biết, lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng tuần qua có xu hướng tăng so với tuần trước.

Cụ thể, mức lãi suất bình quân của tất cả các kỳ hạn đã tăng lên mức trên 10%/năm. Mức dao động của các kỳ hạn từ 0,24% đến 1,08%/năm, trong đó lãi suất bình quân kỳ hạn 6 tháng có mức tăng lớn nhất. Lãi suất cho vay thấp nhất là 5,00%/năm; lãi suất cho vay cao nhất là 12%/năm (không tính lãi suất không kỳ hạn).

Lãi suất bình quân qua đêm tuần qua ở mức 10,71%/năm, tăng 0,66%/năm so với kỳ trước; lãi suất bình quân các kỳ hạn còn lại đều từ 11,30%/năm trở lên. Riêng lãi suất bình quân kỳ hạn 1 tuần là 11,66%/năm (đây là kỳ hạn có doanh số phát sinh lớn nhất); lãi suất bình quân kỳ hạn 12 tháng là 12%/năm.

So với tuần trước đó, lãi suất giao dịch bình quân bằng USD tuần qua có xu hướng giảm đối với các kỳ hạn ngắn và tăng ở các kỳ hạn dài (3 tháng đến 12 tháng). Lãi suất bình quân qua đêm là 0,85%/năm (giảm 0,09% so với kỳ trước). Lãi suất các kỳ hạn còn lại dao động ở mức 1,53% đến 3,82%/năm, không phát sinh giao dịch kỳ hạn 6 tháng.

Trong tuần, doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng đạt xấp xỉ 120.350 tỷ VND và 2.033 triệu USD, bình quân đạt khoảng 24.070 tỷ VND và 406 triệu USD/ngày.

So với tuần liền trước, doanh số giao dịch tuần qua tăng lên đối với cả VND và USD (tăng 8.507 tỷ đồng và 580 triệu USD). Doanh số giao dịch kỳ hạn qua đêm và 1 tuần chiếm tỷ trọng lớn nhất; trong đó tổng doanh số giao dịch kỳ hạn 1 tuần là 55.293 tỷ VND, chiếm 46% so với tổng doanh số giao dịch.
Theo Vneconomy

Sunday, 20 December 2009

Thông tư 228 mới hướng dẫn chế độ trích lập dự phòng

BỘ TÀI CHÍNH

_________

Số: 228/2009/TT-BTC

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

_______________________________

Hà Nội, ngày 07 tháng 12 năm 2009

THÔNG TƯ

Hướng dẫn chế độ trích lập và sử dụng các khoản dự phòng
giảm giá hàng tồn kho, tổn thất các khoản đầu tư tài chính, nợ phải thu khó đòi

và bảo hành sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp tại doanh nghiệp

_________________________

- Căn cứ Luật chứng khoán;

- Căn cứ Nghị định số 118/2008/NĐ-CP ngày 27/11/2008 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính;

- Căn cứ Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp;

- Căn cứ Nghị định số 09/2009/NĐ-CP ngày 5/2/2009 của Chính phủ ban hành Quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác;

Bộ Tài chính hướng dẫn việc trích lập và sử dụng các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng tổn thất các khoản đầu tư tài chính, dự phòng nợ phải thu khó đòi và dự phòng bảo hành sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp tại doanh nghiệp như sau:

Phần I. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Đối tượng áp dụng:

Các tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có thu nhập chịu thuế theo quy định của pháp luật Việt Nam (sau đây gọi là doanh nghiệp).

1. Đối với các doanh nghiệp được thành lập trên cơ sở các Hiệp định ký giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước ngoài, nếu Hiệp định có các quy định về trích lập và sử dụng các khoản dự phòng khác với hướng dẫn tại Thông tư này, thì thực hiện theo quy định của Hiệp định đó.

2. Việc trích lập dự phòng của các Tổ chức tín dụng thực hiện theo quy định tại văn bản hướng dẫn chế độ tài chính đối với các Tổ chức tín dụng.

Điều 2. Giải thích từ ngữ:

1. Dự phòng giảm giá hàng tồn kho: là dự phòng phần giá trị bị tổn thất do giá vật tư, thành phẩm, hàng hóa tồn kho bị giảm.

2. Dự phòng tổn thất các khoản đầu tư chính: là dự phòng phần giá trị bị tổn thất do các loại chứng khoán đầu tư của doanh nghiệp bị giảm giá; giá trị các khoản đầu tư tài chính bị tổn thất do tổ chức kinh tế mà doanh nghiệp đang đầu tư vào bị lỗ.

3. Dự phòng nợ phải thu khó đòi: là dự phòng phần giá trị bị tổn thất của các khoản nợ phải thu quá hạn thanh toán, nợ phải thu chưa quá hạn nhưng có thể không đòi được do khách nợ không có khả năng thanh toán.

4. Dự phòng bảo hành sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp: là dự phòng chi phí cho những sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp đã bán, đã bàn giao cho người mua nhưng doanh nghiệp vẫn có nghĩa vụ phải tiếp tục sửa chữa, hoàn thiện theo hợp đồng hoặc cam kết với khách hàng.

Điều 3. Nguyên tắc chung trong trích lập các khoản dự phòng.

1. Các khoản dự phòng nêu tại điểm 1, 2, 3, 4 Điều 2 Thông tư này được trích trước vào chi phí hoạt động kinh doanh năm báo cáo của doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp có nguồn tài chính để bù đắp tổn thất có thể xảy ra trong năm kế hoạch, nhằm bảo toàn vốn kinh doanh; đảm bảo cho doanh nghiệp phản ánh giá trị vật tư hàng hóa tồn kho, các khoản đầu tư tài chính không cao hơn giá cả trên thị trường và giá trị của các khoản nợ phải thu không cao hơn giá trị có thể thu hồi được tại thời điểm lập báo cáo tài chính.

2. Thời điểm lập và hoàn nhập các khoản dự phòng là thời điểm cuối kỳ kế toán năm. Trường hợp doanh nghiệp được Bộ Tài chính chấp thuận áp dụng năm tài chính khác với năm dương lịch (bắt đầu từ ngày 1/1 và kết thúc 31/12 hàng năm) thì thời điểm lập và hoàn nhập các khoản dự phòng là ngày cuối cùng của năm tài chính.

Đối với các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán phải lập báo cáo tài chính giữa niên độ thì được trích lập và hoàn nhập dự phòng ở cả thời điểm lập báo cáo tài chính giữa niên độ.

3. Doanh nghiệp phải xây dựng cơ chế về quản lý vật tư, hàng hóa, quản lý công nợ để hạn chế các rủi ro trong kinh doanh. Đối với công nợ, hàng hoá, quy chế phải xác định rõ trách nhiệm của từng bộ phận, từng người trong việc theo dõi, quản lý hàng hoá, thu hồi công nợ.

Nghiêm cấm doanh nghiệp lợi dụng việc trích lập dự phòng để tính thêm vào chi phí các khoản dự phòng không có đủ căn cứ nhằm làm giảm nghĩa vụ nộp ngân sách. Những doanh nghiệp cố tình vi phạm sẽ bị xử phạt như hành vi trốn thuế theo quy định của pháp luật hiện hành.

4. Doanh nghiệp phải lập Hội đồng để thẩm định mức trích lập các khoản dự phòng và xử lý tổn thất thực tế của vật tư hàng hóa tồn kho, các khoản đầu tư tài chính, các khoản nợ không có khả năng thu hồi theo quy định tại Thông tư này và văn bản pháp luật khác có liên quan. Riêng việc trích lập dự phòng chi phí bảo hành sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp thì thực hiện theo hợp đồng hoặc cam kết với khách hàng.

Thành phần Hội đồng gồm: Tổng giám đốc (hoặc Giám đốc), Kế toán trưởng, các trưởng phòng, ban có liên quan và một số chuyên gia (nếu cần). Tổng giám đốc (hoặc Giám đốc) doanh nghiệp quyết định thành lập Hội đồng.

Phần II. TRÍCH LẬP VÀ SỬ DỤNG CÁC KHOẢN DỰ PHÒNG

Căn cứ vào biến động thực tế về giá hàng tồn kho, giá chứng khoán, giá trị các khoản đầu tư tài chính, nợ phải thu khó đòi và cam kết bảo hành sản phẩm, hàng hoá, doanh nghiệp chủ động xác định mức trích lập, sử dụng từng khoản dự phòng đúng mục đích và xử lý theo các quy định cụ thể dưới đây:

Điều 4. Dự phòng giảm giá hàng tồn kho.

1. Đối tượng lập dự phòng bao gồm nguyên vật liệu, dụng cụ dùng cho sản xuất, vật tư, hàng hóa, thành phẩm tồn kho (gồm cả hàng tồn kho bị hư hỏng, kém mất phẩm chất, lạc hậu mốt, lạc hậu kỹ thuật, lỗi thời, ứ đọng, chậm luân chuyển...), sản phẩm dở dang, chi phí dịch vụ dở dang (sau đây gọi tắt là hàng tồn kho) mà giá gốc ghi trên sổ kế toán cao hơn giá trị thuần có thể thực hiện được và đảm bảo điều kiện sau:

- Có hóa đơn, chứng từ hợp pháp theo quy định của Bộ Tài chính hoặc các bằng chứng khác chứng minh giá vốn hàng tồn kho.

- Là những vật tư hàng hóa thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp tồn kho tại thời điểm lập báo cáo tài chính.

Trường hợp nguyên vật liệu có giá trị thuần có thể thực hiện được thấp hơn so với giá gốc nhưng giá bán sản phẩm dịch vụ được sản xuất từ nguyên vật liệu này không bị giảm giá thì không được trích lập dự phòng giảm giá nguyên vật liệu tồn kho đó.

2. Phương pháp lập dự phòng:

Mức trích lập dự phòng tính theo công thức sau:

Mức dự phòng giảm giá vật tư hàng hóa

=

Lượng vật tư hàng hóa thực tế tồn kho tại thời điểm lập báo cáo tài chính

x

( Giá gốc hàng tồn kho theo sổ kế toán

-

Giá trị thuần có thể thực hiện được của hàng tồn kho )

Giá gốc hàng tồn kho bao gồm: chi phí mua, chi phí chế biến và các chi phí liên quan trực tiếp khác phát sinh để có được hàng tồn kho ở địa điểm và trạng thái hiện tại theo quy định tại Chuẩn mực kế toán số 02 - Hàng tồn kho ban hành kèm theo Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.

Giá trị thuần có thể thực hiện được của hàng tồn kho (giá trị dự kiến thu hồi) là giá bán (ước tính) của hàng tồn kho trừ (-) chi phí để hoàn thành sản phẩm và chi phí tiêu thụ (ước tính).

Mức lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho được tính cho từng loại hàng tồn kho bị giảm giá và tổng hợp toàn bộ vào bảng kê chi tiết. Bảng kê là căn cứ để hạch toán vào giá vốn hàng bán (giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong kỳ) của doanh nghiệp.

Riêng dịch vụ cung cấp dở dang, việc lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho tính theo từng loại dịch vụ có mức giá riêng biệt.

3. Xử lý khoản dự phòng:

Tại thời điểm lập dự phòng nếu giá gốc hàng tồn kho cao hơn giá trị thuần có thể thực hiện được của hàng tồn kho thì phải trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho theo các quy định tại điểm 1, điểm 2 Điều này.

- Nếu số dự phòng giảm giá phải trích lập bằng số dư khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, thì doanh nghiệp không phải trích lập khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho;

- Nếu số dự phòng giảm giá phải trích lập cao hơn số dư khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, thì doanh nghiệp được trích thêm phần chênh lệch vào giá vốn hàng bán ra trong kỳ.

- Nếu số dự phòng phải trích lập thấp hơn số dư khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, thì doanh nghiệp phải hoàn nhập phần chênh lệch và ghi giảm giá vốn hàng bán.

4. Xử lý huỷ bỏ đối với vật tư, hàng hoá đã trích lập dự phòng:

a) Hàng tồn đọng do hết hạn sử dụng, mất phẩm chất, dịch bệnh, hư hỏng do không còn giá trị sử dụng như: dược phẩm, thực phẩm, vật tư y tế, con giống, vật nuôi, vật tư hàng hoá khác phải huỷ bỏ thì xử lý như sau:

Doanh nghiệp lập Hội đồng xử lý tài sản để thẩm định tài sản bị huỷ bỏ. Biên bản thẩm định phải kê chi tiết tên, số lượng, giá trị hàng hoá phải huỷ bỏ, nguyên nhân phải huỷ bỏ, giá trị thu hồi được do bán thanh lý, giá trị thiệt hại thực tế.

Mức độ tổn thất thực tế của từng loại hàng tồn đọng không thu hồi được là khoản chênh lệch giữa giá trị ghi trên sổ kế toán trừ đi giá trị thu hồi do thanh lý (do người gây ra thiệt hại đền bù, do bán thanh lý hàng hoá).

b) Thẩm quyền xử lý: Hội đồng quản trị (đối với doanh nghiệp có Hội đồng quản trị) hoặc Hội đồng thành viên (đối với doanh nghiệp có Hội đồng thành viên); Tổng giám đốc (hoặc Giám đốc) đối với doanh nghiệp không có Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên; chủ doanh nghiệp căn cứ vào Biên bản của Hội đồng xử lý, các bằng chứng liên quan đến hàng hoá tồn đọng để quyết định xử lý huỷ bỏ vật tư, hàng hoá nói trên; quyết định xử lý trách nhiệm của những người liên quan đến số vật tư, hàng hoá đó và chịu trách nhiệm về quyết định của mình trước chủ sở hữu và trước pháp luật.

c) Xử lý hạch toán:

Giá trị tổn thất thực tế của hàng tồn đọng không thu hồi được đã có quyết định xử lý huỷ bỏ, sau khi bù đắp bằng nguồn dự phòng giảm giá hàng tồn kho, phần chênh lệch thiếu được hạch toán vào giá vốn hàng bán của doanh nghiệp.

Điều 5. Dự phòng tổn thất các khoản đầu tư tài chính.

1. Đối với các khoản đầu tư chứng khoán:

a) Đối tượng: là các chứng khoán có đủ các điều kiện sau:

- Là các loại chứng khoán được doanh nghiệp đầu tư theo đúng quy định của pháp luật.

- Được tự do mua bán trên thị trường mà tại thời điểm kiểm kê, lập báo cáo tài chính có giá thị trường giảm so với giá đang hạch toán trên sổ kế toán.

Những chứng khoán không được phép mua bán tự do trên thị trường như các chứng khoán bị hạn chế chuyển nhượng theo quy định của pháp luật; cổ phiếu quỹ thì không được lập dự phòng giảm giá.

Các tổ chức đăng ký hoạt động kinh doanh chứng khoán như các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật chứng khoán, việc trích lập dự phòng giảm giá chứng khoán thực hiện theo quy định riêng.

b) Phương pháp lập dự phòng:

Mức trích lập dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán được tính theo công thức sau:

Mức dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán

=

Số lượng chứng khoán bị giảm giá tại thời điểm lập báo cáo tài chính

x

( Giá chứng khoán hạch toán trên sổ kế toán

-

Giá chứng khoán thực tế trên thị trường )

- Đối với chứng khoán đã niêm yết: giá chứng khoán thực tế trên thị trường được tính theo giá thực tế trên các Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) là giá giao dịch bình quân tại ngày trích lập dự phòng; Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) là giá đóng cửa tại ngày trích lập dự phòng.

- Đối với các loại chứng khoán chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán, giá chứng khoán thực tế trên thị trường được xác định như sau:

+ Đối với các Công ty đã đăng ký giao dịch trên thị trường giao dịch của các công ty đại chúng chưa niêm yết (UPCom) thì giá chứng khoán thực tế trên thị trường được xác định là giá giao dịch bình quân trên hệ thống tại ngày lập dự phòng.

+ Đối với các công ty chưa đăng ký giao dịch ở thị trường giao dịch của các công ty đại chúng thì giá chứng khoán thực tế trên thị trường được xác định là giá trung bình trên cơ sở giá giao dịch được cung cấp tối thiểu bởi ba (03) công ty chứng khoán tại thời điểm lập dự phòng.

Trường hợp không thể xác định được giá trị thị trường của chứng khoán thì các doanh nghiệp không được trích lập dự phòng giảm giá chứng khoán.

- Đối với những chứng khoán niêm yết bị huỷ giao dịch, ngừng giao dịch kể từ ngày giao dịch thứ sáu trở đi là giá trị sổ sách tại ngày lập bảng cân đối kế toán gần nhất.

Doanh nghiệp phải lập dự phòng riêng cho từng loại chứng khoán đầu tư, có biến động giảm giá tại thời điểm lập báo cáo tài chính và được tổng hợp vào bảng kê chi tiết dự phòng giảm giá chứng khoán đầu tư, làm căn cứ hạch toán vào chi phí tài chính của doanh nghiệp.

c) Xử lý khoản dự phòng:

Tại thời điểm lập dự phòng nếu các chứng khoán do doanh nghiệp đầu tư bị giảm giá so với giá đang hạch toán trên sổ kế toán thì phải trích lập dự phòng theo các quy định tại tiết b điểm 1 Điều này;

Nếu số dự phòng phải trích lập bằng số dư khoản dự phòng, thì doanh nghiệp không phải trích lập khoản dự phòng;

Nếu số dự phòng phải trích lập cao hơn số dư khoản dự phòng, thì doanh nghiệp trích thêm vào chi phí tài chính của doanh nghiệp phần chênh lệch.

Nếu số dự phòng phải trích lập thấp hơn số dư khoản dự phòng, thì doanh nghiệp phải hoàn nhập phần chênh lệch ghi giảm chi phí tài chính.

2. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn:

a) Đối tượng: là các khoản vốn doanh nghiệp đang đầu tư vào tổ chức kinh tế khác được thành lập theo quy định của pháp luật như công ty nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh... và các khoản đầu tư dài hạn khác phải trích lập dự phòng nếu tổ chức kinh tế mà doanh nghiệp đang đầu tư bị lỗ (trừ trường hợp lỗ theo kế hoạch đã được xác định trong phương án kinh doanh trước khi đầu tư).

b) Phương pháp lập dự phòng:

Mức trích tối đa cho mỗi khoản đầu tư tài chính bằng số vốn đã đầu tư và tính theo công thức sau:

Mức dự phòng tổn thất các khoản đầu tư tài chính

=

( Vốn góp thực tế của các bên tại tổ chức kinh tế

-

Vốn chủ

sở hữu thực có )

x

Số vốn đầu tư của doanh nghiệp

______________________

Tổng số vốn góp thực tế của các bên tại tổ chức kinh tế

Trong đó:

- Vốn góp thực tế của các bên tại tổ chức kinh tế được xác định trên Bảng cân đối kế toán của tổ chức kinh tế năm trước thời điểm trích lập dự phòng (mã số 411 và 412 Bảng cân đối kế toán - ban hành kèm theo Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính).

- Vốn chủ sở hữu thực có được xác định tại Bảng cân đối kế toán của tổ chức kinh tế năm trước thời điểm trích lập dự phòng (mã số 410 Bảng cân đối kế toán - ban hành kèm theo Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính).

Căn cứ để lập dự phòng khi vốn góp thực tế của các bên tại tổ chức kinh tế lớn hơn vốn chủ sở hữu thực có tại thời điểm báo cáo tài chính của tổ chức kinh tế.

Doanh nghiệp phải lập dự phòng riêng cho từng khoản đầu tư tài chính có tổn thất và được tổng hợp vào bảng kê chi tiết dự phòng tổn thất đầu tư tài chính. Bảng kê là căn cứ để hạch toán vào chi phí tài chính của doanh nghiệp.

c) Xử lý khoản dự phòng:

Tại thời điểm lập dự phòng nếu các khoản vốn đầu tư vào tổ chức kinh tế bị tổn thất do tổ chức kinh tế bị lỗ thì phải trích lập dự phòng tổn thất các đầu tư tài chính theo các quy định tại tiết b điểm 2 Điều này;

Nếu số dự phòng tổn thất đầu tư tài chính phải trích lập bằng số dư khoản dự phòng, thì doanh nghiệp không phải trích lập khoản dự phòng tổn thất đầu tư tài chính;

Nếu số dự phòng phải trích lập cao hơn số dư khoản dự phòng, thì doanh nghiệp trích thêm vào chi phí tài chính của doanh nghiệp phần chênh lệch.

Nếu số dự phòng phải trích lập thấp hơn số dư khoản dự phòng, thì doanh nghiệp phải hoàn nhập phần chênh lệch ghi giảm chi phí tài chính.

Điều 6. Dự phòng nợ phải thu khó đòi.

1. Điều kiện: là các khoản nợ phải thu khó đòi đảm bảo các điều kiện sau:

- Khoản nợ phải có chứng từ gốc, có đối chiếu xác nhận của khách nợ về số tiền còn nợ, bao gồm: hợp đồng kinh tế, khế ước vay nợ, bản thanh lý hợp đồng, cam kết nợ, đối chiếu công nợ và các chứng từ khác.

Các khoản không đủ căn cứ xác định là nợ phải thu theo quy định này phải xử lý như một khoản tổn thất.

- Có đủ căn cứ xác định là khoản nợ phải thu khó đòi:

+ Nợ phải thu đã quá hạn thanh toán ghi trên hợp đồng kinh tế, các khế ước vay nợ hoặc các cam kết nợ khác.

+ Nợ phải thu chưa đến thời hạn thanh toán nhưng tổ chức kinh tế (các công ty, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, tổ chức tín dụng ...) đã lâm vào tình trạng phá sản hoặc đang làm thủ tục giải thể; người nợ mất tích, bỏ trốn, đang bị các cơ quan pháp luật truy tố, giam giữ, xét xử, đang thi hành án hoặc đã chết.

2. Phương pháp lập dự phòng:

Doanh nghiệp phải dự kiến mức tổn thất có thể xảy ra hoặc tuổi nợ quá hạn của các khoản nợ và tiến hành lập dự phòng cho từng khoản nợ phải thu khó đòi, kèm theo các chứng cứ chứng minh các khoản nợ khó đòi nói trên. Trong đó:

- Đối với nợ phải thu quá hạn thanh toán, mức trích lập dự phòng như sau:

+ 30% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ trên 6 tháng đến dưới 1 năm.

+ 50% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 1 năm đến dưới 2 năm.

+ 70% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 2 năm đến dưới 3 năm.

+ 100% giá trị đối với khoản nợ phải thu từ 3 năm trở lên.

- Đối với nợ phải thu chưa đến hạn thanh toán nhưng tổ chức kinh tế đã lâm vào tình trạng phá sản hoặc đang làm thủ tục giải thể; người nợ mất tích, bỏ trốn, đang bị các cơ quan pháp luật truy tố, giam giữ, xét xử hoặc đang thi hành án hoặc đã chết ... thì doanh nghiệp dự kiến mức tổn thất không thu hồi được để trích lập dự phòng.

- Sau khi lập dự phòng cho từng khoản nợ phải thu khó đòi, doanh nghiệp tổng hợp toàn bộ khoản dự phòng các khoản nợ vào bảng kê chi tiết để làm căn cứ hạch toán vào chi phí quản lý của doanh nghiệp.

3. Xử lý khoản dự phòng:

- Khi các khoản nợ phải thu được xác định khó đòi, doanh nghiệp phải trích lập dự phòng theo các quy định tại điểm 2 Điều này; nếu số dự phòng phải trích lập bằng số dư dự phòng nợ phải thu khó, thì doanh nghiệp không phải trích lập;

- Nếu số dự phòng phải trích lập cao hơn số dư khoản dự phòng nợ phải thu khó đòi, thì doanh nghiệp phải trích thêm vào chi phí quản lý doanh nghiệp phần chênh lệch;

- Nếu số dự phòng phải trích lập thấp hơn số dư khoản dự phòng nợ phải thu khó đòi, thì doanh nghiệp phải hoàn nhập phần chênh lệch ghi giảm chi phí quản lý doanh nghiệp.

4. Xử lý tài chính các khoản nợ không có khả năng thu hồi:

a) Nợ phải thu không có khả năng thu hồi bao gồm các khoản nợ sau:

- Đối với tổ chức kinh tế:

+ Khách nợ đã giải thể, phá sản: Quyết định của Tòa án tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo Luật phá sản hoặc quyết định của người có thẩm quyền về giải thể đối với doanh nghiệp nợ, trường hợp tự giải thể thì có thông báo của đơn vị hoặc xác nhận của cơ quan quyết định thành lập đơn vị, tổ chức.

+ Khách nợ đã ngừng hoạt động và không có khả năng chi trả: Xác nhận của cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp hoặc tổ chức đăng ký kinh doanh về việc doanh nghiệp, tổ chức đã ngừng hoạt động không có khả năng thanh toán.

- Đối với cá nhân phải có một trong các tài liệu sau:

+ Giấy chứng tử (bản sao) hoặc xác nhận của chính quyền địa phương đối với người nợ đã chết nhưng không có tài sản thừa kế để trả nợ.

+ Giấy xác nhận của chính quyền địa phương đối với người nợ còn sống hoặc đã mất tích nhưng không có khả năng trả nợ.

+ Lệnh truy nã hoặc xác nhận của cơ quan pháp luật đối với người nợ đã bỏ trốn hoặc đang bị truy tố, đang thi hành án hoặc xác nhận của chính quyền địa phương về việc khách nợ hoặc người thừa kế không có khả năng chi trả.

b) Xử lý tài chính:

Tổn thất thực tế của từng khoản nợ không thu hồi được là khoản chênh lệch giữa nợ phải thu ghi trên sổ kế toán và số tiền đã thu hồi được (do người gây ra thiệt hại đền bù, do phát mại tài sản của đơn vị nợ hoặc người nợ, do được chia tài sản theo quyết định của tòa án hoặc các cơ quan có thẩm quyền khác...).

Giá trị tổn thất thực tế của khoản nợ không có khả năng thu hồi, doanh nghiệp sử dụng nguồn dự phòng nợ phải thu khó đòi, quỹ dự phòng tài chính (nếu có) để bù đắp, phần chênh lệch thiếu hạch toán vào chi phí quản lý của doanh nghiệp.

Các khoản nợ phải thu sau khi đã có quyết định xử lý, doanh nghiệp vẫn phải theo dõi riêng trên sổ kế toán và được phản ánh ở ngoài bảng cân đối kế toán trong thời hạn tối thiểu là 10 năm, tối đa là 15 năm kể từ ngày thực hiện xử lý và tiếp tục có các biện pháp để thu hồi nợ. Nếu thu hồi được nợ thì số tiền thu hồi sau khi trừ các chi phí có liên quan đến việc thu hồi nợ, doanh nghiệp hạch toán vào thu nhập khác.

c) Khi xử lý khoản nợ phải thu không có khả năng thu hồi doanh nghiệp phải lập hồ sơ sau:

- Biên bản của Hội đồng xử lý nợ của doanh nghiệp. Trong đó ghi rõ giá trị của từng khoản nợ phải thu, giá trị nợ đã thu hồi được, giá trị thiệt hại thực tế (sau khi đã trừ đi các khoản thu hồi được).

- Bảng kê chi tiết các khoản nợ phải thu đã xóa để làm căn cứ hạch toán, biên bản đối chiếu nợ được chủ nợ và khách nợ xác nhận hoặc Bản thanh lý hợp đồng kinh tế hoặc xác nhận của cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp, tổ chức hoặc các tài liệu khách quan khác chứng minh được số nợ tồn đọng và các giấy tờ tài liệu liên quan.

- Sổ kế toán, chứng từ, tài liệu chứng minh khoản nợ chưa thu hồi được, đến thời điểm xử lý nợ doanh nghiệp đang hạch toán nợ phải thu trên sổ kế toán của doanh nghiệp.

d) Thẩm quyền xử lý nợ:

Hội đồng quản trị (đối với doanh nghiệp có Hội đồng quản trị) hoặc Hội đồng thành viên (đối với doanh nghiệp có Hội đồng thành viên); Tổng giám đốc, Giám đốc (đối với doanh nghiệp không có Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên) hoặc chủ doanh nghiệp căn cứ vào Biên bản của Hội đồng xử lý, các bằng chứng liên quan đến các khoản nợ để quyết định xử lý những khoản nợ phải thu không thu hồi được và chịu trách nhiệm về quyết định của mình trước pháp luật, đồng thời thực hiện các biện pháp xử lý trách nhiệm theo chế độ hiện hành.

Điều 7. Dự phòng bảo hành sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp.

1. Đối tượng và điều kiện lập dự phòng: là những sản phẩm, hàng hóa, công trình xây lắp do doanh nghiệp thực hiện và đã bán hoặc bàn giao trong năm được doanh nghiệp cam kết bảo hành tại hợp đồng hoặc các văn bản quy định khác.

2. Phương pháp lập dự phòng:

Doanh nghiệp dự kiến mức tổn thất trích bảo hành sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp đã tiêu thụ trong năm và tiến hành lập dự phòng cho từng loại sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp có cam kết bảo hành. Tổng mức trích lập dự phòng bảo hành của các sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp theo quy định đã cam kết với khách hàng nhưng tối đa không vượt quá 5% tổng doanh thu tiêu thụ đối với các sản phẩm, hàng hoá và không quá 5% trên tổng giá trị công trình đối với các công trình xây lắp.

Sau khi lập dự phòng cho từng loại sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp doanh nghiệp tổng hợp toàn bộ khoản dự phòng vào bảng kê chi tiết. Bảng kê chi tiết là căn cứ để hạch toán:

- Đối với dự phòng bảo hành sản phẩm, hàng hoá khi trích lập hạch toán vào chi phí bán hàng.

- Đối với dự phòng bảo hành công trình xây lắp khi trích lập hạch toán vào chi phí sản xuất chung.

3. Xử lý khoản dự phòng:

Tại thời điểm lập dự phòng nếu số thực chi bảo hành lớn hơn số đã trích lập dự phòng thì phần chênh lệch thiếu được hạch toán vào chi phí bán hàng. Nếu số dự phòng bảo hành phải trích lập bằng số dư của khoản dự phòng, thì doanh nghiệp không phải trích lập khoản dự phòng bảo hành;

Nếu số dự phòng bảo hành phải trích lập cao hơn số dư của khoản dự phòng bảo hành, thì doanh nghiệp trích thêm vào chi phí bán hàng đối với dự phòng bảo hành sản phẩm, hàng hoá hoặc chi phí sản xuất chung đối với dự phòng bảo hành công trình xây lắp của doanh nghiệp phần chênh lệch này.

Nếu số dự phòng phải trích lập thấp hơn số dư của khoản dự phòng, thì doanh nghiệp hoàn nhập phần chênh lệch:

- Đối với dự phòng bảo hành sản phẩm, hàng hoá ghi giảm chi phí bán hàng.

- Đối với dự phòng bảo hành công trình xây lắp hạch toán vào thu nhập khác.

Hết thời hạn bảo hành, nếu không phải chi bảo hành hoặc không sử dụng hết số tiền dự phòng đã trích lập, số dư còn lại được hoàn nhập theo nguyên tắc trên.

Phần III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Điều 8. Thông tư này có hiệu lực sau 45 ngày kể từ ngày ký và được áp dụng việc trích lập các khoản dự phòng của doanh nghiệp từ năm 2009, thay thế Thông tư số 13/2006/TT-BTC ngày 27/2/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ trích lập và sử dụng các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, tổn thất các khoản đầu tư tài chính, nợ khó đòi và bảo hành sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp tại doanh nghiệp và các văn bản khác quy định về trích lập và sử dụng các khoản dự phòng trái với quy định của Thông tư này.

2. Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc đề nghị phản ánh kịp thời về Bộ Tài chính để nghiên cứu sửa đổi, bổ sung./.

Nơi nhận:

- Thủ tướng, các Phó TTCP;

- VPTW và các Ban của Đảng;

- VP Quốc Hội;

- VP Chủ tịch nước;

- VP Chính phủ;

- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

- Toàn án nhân dân tối cao;

- Kiểm toán Nhà nước;

- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP;

- Cơ quan TW của các đoàn thể;

- UBND, Sở Tài chính, Cục Thuế, Kho bạc các tỉnh, TP trực thuộc TW;

- Website Chính phủ; Công báo;

- VP BCĐ TW về phòng chống tham nhũng;

- Cục kiểm tra văn bản (Bộ Tư pháp);

- Các Tập đoàn kinh tế nhà nước; Các Tổng công ty Nhà nước; VCCI; Hội kế toán và Kiểm toán VN; Hội Kiểm toán viên hành nghề VN;

- Các đơn vị thuộc Bộ Tài chính;

- Website Bộ Tài chính;

- Lưu: VT, Cục TCDN.

KT. BỘ TRƯỞNG

THỨ TRƯỞNG

(Đã ký)

Trần Văn Hiếu



Tệp đính kèm
TT228BTC.DOC