Thursday, 3 December 2009

Xác định trị giá tính thuế: Hiệu quả nhưng chưa cao

Kiểm tra, xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu là một trong những biện pháp ngành Hải quan triển khai mạnh mẽ.
(eFinance) - (Tạp chí Tài chính Điện tử số 76 ngày 15/10/2009) - Kiểm tra, xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu là một trong những biện pháp ngành Hải quan triển khai mạnh mẽ, nhằm chống thất thu, tăng thu cho ngân sách nhà nước.

Việc tăng cường công tác quản lý giá tính thuế nhập khẩu cũng đã được luật hóa bằng một lọat các văn bản quan trọng như: Nghị định 40/2007/NĐ-CP (ngày 16/3/2007) của Chính phủ, Thông tư số 40/2008/TT-BTC (ngày 21/5/2008) của Bộ Tài chính và các văn bản hướng dẫn xác định trị giá tính thuế khác.

“Muôn hình, vạn trạng” gian lận qua giá

Tổng cục Hải quan cho hay, doanh nghiệp chưa tự giác tuân thủ các quy định của pháp luật trong khai báo trị giá, còn rất nhiều doanh nghiệp không hiểu hoặc cố tình không hiểu nghĩa vụ đối với nhà nước, chỉ nhận thức về mặt quyền lợi là được chấp nhận trị giá khai báo mà chưa ý thức được nghĩa vụ trước cơ quan hải quan như khai báo trung thực, hợp tác với cơ quan hải quan trong việc kiểm tra, xác định trị giá tính thuế cũng như trong quá trình tham vấn.

Thậm chí, có hiện tượng doanh nghiệp lợi dụng sự thông thoáng của chính sách để khai báo trị giá thấp. Cùng chủng loại hàng hóa, doanh nghiệp có thể khai báo không thống nhất, nếu cơ quan hải quan không cập nhật thông tin trên toàn quốc rất dễ bỏ qua và doanh nghiệp có thể trốn được một khoản thuế. Đơn cử như: Xe Toyota Venza dung tích 2.700cc và dung tích 3.500cc do Mỹ sản xuất năm 2009; dòng xe Hyundai Genesis dung tích 2.000cc do Hàn Quốc sản xuất có giá xác định không thống nhất, thấp hơn so với mặt hàng giống hệt, tương tự do chính doanh nghiệp khai báo nhập khẩu trước đó. Theo Tổng cục Hải quan, mức giá chênh lệch của các dòng xe này là từ 500 USD đến 1.700 USD hoặc có giá khai báo không phù hợp với thực tế.

Hoặc doanh nghiệp hợp thức hoá hồ sơ trên cơ sở khai báo khoản chiết khấu, giảm giá để được khấu trừ ra khỏi trị giá tính thuế. Lợi dụng quy định hàng khuyến mại nhỏ hơn 10% để khai báo hàng khuyến mại tuỳ tiện. Dựa vào các mức giá tại danh mục quản lý rủi ro, danh mục mặt hàng trọng diểm để khai báo thấp dần trị giá thực thanh toán.

Khai báo giá thành phẩm, sản phẩm nguyên chiếc thấp hơn so với nguyên vật liệu chính cấu thành. Không khai báo tiền bản quyền, phí giấy phép hoặc lợi dụng quy định không đánh thuế phần mềm để nhập khẩu phần mềm tách khỏi máy móc thiết bị. Khai báo tuỳ tiện trị giá hàng xuất khẩu đối với một số tài nguyên khoáng sản xuất khẩu có mức thuế suất từ 10% trở lên.

Trả lại đúng giá trị thực

Để tăng cường công tác quản lý giá tính thuế nhập khẩu, Tổng cục Hải quan đã yêu cầu các cục hải quan địa phương tuân thủ theo đúng quy định tại Thông tư số 40/2008/TT-BTC (ngày 21/5/2008) của Bộ Tài chính và các văn bản hướng dẫn xác định trị giá tính thuế.

Theo đánh giá của Tổng cục Hải quan: Sau một năm áp dụng Thông tư số 40/2008/TT-BTC đã tác động tích cực đến việc đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý, góp phần rút ngắn thời gian thông quan hàng hoá; tạo thuận lợi và thúc đẩy hoạt động xuất, nhập khẩu; tạo sự công bằng, bình đẳng trong kinh doanh thương mại; tôn trọng lợi ích, nỗ lực đàm phán của doanh nghiệp trong các giao dịch thương mại, thể hiện cụ thể trên các mặt sau:

Công tác kiểm tra trị giá khai báo trên nguyên tắc áp dụng kỹ thuật rủi ro giúp tập trung tối đa nguồn lực để kiểm tra, phát hiện các lô hàng có nghi vấn về mức giá để tổ chức tham vấn, bác bỏ, xác định trị giá tính thuế.

Nguyên tắc quản lý này đã đặc biệt phát huy tác dụng trong việc quản lý trị giá tính thuế của các mặt hàng nhạy cảm, có thuế suất cao như: Ô tô, xe máy… góp phần từng bước ngăn chặn hiện tượng gian lận thương mại qua giá, thu bổ sung 596 tỷ đồng cho ngân sách nhà nước, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các doanh nghiệp.

Tại một số cục hải quan có số thuế điều chỉnh tăng do áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro về trị giá như: Cục Hải quan TP. Hồ Chí Minh số thuế điều chỉnh tăng hơn 296,5 tỷ đồng; Cục Hải quan Hà Nội số thuế điều chỉnh tăng xấp xỉ 9 tỷ đồng, số thuế thực thu đạt hơn 8,3 tỷ đồng; Cục Hải quan Hải Phòng số thuế điều chỉnh tăng hơn 222 tỷ đồng, số thuế thực thu đạt hơn 110 tỷ đồng.

Qua hơn 1 năm thực hiện Thông tư 40 đã giúp doanh nghiệp nâng cao ý thức tuân thủ trong khai báo trị giá. Bên cạnh đó, cùng với công tác tham vấn, việc áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro, đã có tác động tích cực đến cộng đồng doanh nghiệp, góp phần nâng cao ý thức của doanh nghiệp, khơi dậy tính tự giác, tuân thủ trong việc khai báo trị giá của doanh nghiệp; Rất nhiều mặt hàng sau khi đã được tham vấn, doanh nghiệp đã chủ động khai báo trị giá cao hơn ở các lần nhập khẩu tiếp theo để được áp dụng trị giá giao dịch, điều này làm cho mặt bằng trị giá khai báo được nâng lên.

Việc xây dựng danh mục mặt hàng quản lý rủi ro và danh mục mặt hàng trọng điểm, là một trong những cơ sở giúp cho cơ quan hải quan kiểm tra, phát hiện nhanh những trường hợp có nghi ngờ về trị giá. Rất nhiều trường hợp doanh nghiệp chấp nhận mức giá do cơ quan hải quan xác định không cần qua tham vấn. Trong một năm (từ 01/7/2008 đến 01/7/2009) số thuế điều chỉnh tăng doanh nghiệp chấp nhận ngay không qua tham vấn là 110 tỷ đồng, chiếm 18% tổng số thuế điều chỉnh tăng do cơ quan hải quan bác bỏ trị giá khai báo, xác định trị giá tính thuế.

Đơn giản hóa hệ thống văn bản hướng dẫn xác định trị giá tính thuế, tạo thuận lợi cho việc áp dụng. Nâng cao tính pháp lý của một số nội dung nghiệp vụ quan trọng, đóng vai trò quyết định trong khâu nghiệp vụ trị giá tính thuế như các nội dung về “kiểm tra, xác định trị giá tính thuế”, quy định về “tham vấn”, “thu nhập, cập nhật, quản lý, sử dụng thông tin”.

Nhưng hiệu quả còn thấp

Tổng cục Hải quan cũng thẳng thắn nhìn nhận: Công tác kiểm tra trị giá còn chưa hiệu quả, bỏ lọt nhiều trường hợp trị giá khai báo thấp hơn mặt hàng giống hệt hoặc tương tự trên hệ thống dữ liệu thông tin về giá (GTT22), thậm chí thấp hơn Danh mục mặt hàng quản lý rủi ro về giá nhưng vẫn không được đưa vào diện nghi vấn về mức giá để tổ chức tham vấn theo đúng quy định. Trong thời gian qua, Tổng cục Hải quan đã có nhiều văn bản nhắc nhở các đơn vị khắc phục tình trạng này.

Đối tượng tham vấn chưa trọng tâm, trọng điểm theo đúng nguyên tắc quản lý rủi ro, vẫn còn tình trạng tham vấn tràn lan do danh mục mặt hàng trọng điểm của các cục hải quan địa phương chưa được giới hạn cụ thể dẫn đến phạm vi quản lý danh mục mặt hàng trọng điểm là quá rộng.

Nguyên tắc tham vấn tập trung ở cấp cục (chỉ phân cấp cho cấp chi cục thực hiện trong một số trường hợp riêng) theo tinh thần Đề án quản lý trị giá tính thuế giai đoạn 2008-2010 đã được Lãnh đạo Bộ phê duyệt và cụ thể hóa tại Thông tư 40/2008/TT-BTC (ngày 21/5/2008) của Bộ Tài chính; Quy trình kiểm tra xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu, nhưng trên thực tế nghiệp vụ này chủ yếu diễn ra ở cấp chi cục, trong khi thế mạnh hỗ trợ mảng nghiệp vụ này (như đội ngũ cán bộ chuyên trách giá; phong phú về nguồn thông tin tham khảo; ít chịu áp lực về thời gian thông quan…) lại tập trung chủ yếu ở cấp cục. Chính điều này khiến cho việc quản lý giá không được đồng bộ, việc tiếp cận cũng như cung cấp thông tin giữa các chi cục, giữa các chi cục với các cục hải quan và Tổng cục Hải quan không đầy đủ, chính xác.

Bên cạnh đó, hiệu quả tham vấn chưa cao, nhất là đối với danh mục mặt hàng trọng điểm do chưa xác định đúng đối tượng trọng tâm, trọng điểm cần tham vấn. Việc bố trí, luân chuyển, sắp xếp cán bộ làm công tác giá tại một số địa phương còn chưa được lãnh đạo đơn vị quan tâm đúng mức, vẫn còn tình trạng bố trí cán bộ chưa được đào tạo về giá làm công tác giá. Mối liên kết giữa các cục hải quan địa phương trong trao đổi thông tin, kinh nghiệm khi tham vấn và đấu tranh bác bỏ trị giá khai báo đối với các lô hàng nghi ngờ, trao đổi thông tin về doanh nghiệp xuất nhập khẩu còn hạn chế.

Hệ thống cơ sở dữ liệu còn nghèo nàn, đa số chỉ dựa vào thông tin do doanh nghiệp khai báo, có độ tin cậy thấp trong khi chưa có các giải pháp hữu hiệu để thu thập các nguồn thông tin bên ngoài, làm cơ sở để so sánh đối chiếu mức độ tin cậy của các thông tin do doanh nghiệp khai báo. Bên cạnh đó, thông tin dữ liệu trong hệ thống GTT22 còn sơ sài, không cụ thể tên hàng, tiêu chí. Do vậy, khó khăn trong việc khai thác sử dụng.

Hệ thống kiểm tra sau thông quan, điều tra chống buôn lậu, thuế nội địa chưa đáp ứng được yêu cầu xác minh các trường hợp nghi ngờ trị giá khai báo do bộ phận trị giá chuyển sang sau khi đã tham vấn. Mặc dù cơ chế phối hợp giữa các bên đã được quy định cụ thể tại Thông tư 40/2008/TT-BTC nhưng trên thực tế sự phối giữa các bộ phận trong ngành trong việc kiểm tra trị giá còn lỏng lẻo, chưa đảm bảo tính đồng bộ, kịp thời và hiệu quả.

Đi tìm nguyên nhân?

Tổng cục Hải quan cho rằng: Các tồn tại trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là thiếu thông tin hỗ trợ kiểm tra, xác định trị giá tính thuế. Việc hạn chế về nguồn, tính pháp lý của các nguồn thông tin là không thể phủ nhận được. Tuy nhiên so với trước đây, Thông tư 40/2008/TT-BTC và Quyết định số 1102/QĐ-BTC, thay vì hạn chế, bó buộc trong quy định thì đã mở rộng và cụ thể hóa hơn rất nhiều về nguồn thông tin cũng như cách thức sử dụng, phương pháp so sánh, tính toán… mức giá kiểm tra để hỗ trợ công tác kiểm tra trị giá.

Vì vậy nguyên nhân chính ở đây xuất phát từ ý thức, trách nhiệm, khả năng đáp ứng yêu cầu nghiệp vụ của cán bộ, công chức. Bên cạnh đó còn những nguyên nhân như: Đơn vị không muốn triển khai triệt để vì e ngại doanh nghiệp sẽ đến làm thủ tục tại đơn vị khác, làm ảnh hưởng tới số thu của đơn vị mình. Cán bộ trị giá đặc biệt là cán bộ trực tiếp tham vấn với doanh nghiệp phải là người nắm vững nghiệp vụ giá, có kinh nghiệm công tác để chủ động trong mọi tình huống khi làm việc trực diện với doanh nghiệp, tuy nhiên đặt trong bài toán nhân sự chung của toàn ngành (chỉ tiêu, biên chế, yêu cầu tuyển dụng, chính sách luân chuyển cán bộ) thì yêu cầu này không được áp ứng.

Qua con số cụ thể của cục hải quan các tỉnh, thành phố cho thấy rất nhiều các đơn vị chỉ có 01 cán bộ làm công tác giá ở cấp cục và kinh nghiệm công tác trong lĩnh vực này là dưới 1 năm (An Giang, Hà Giang, Hà Tĩnh, Lào Cai, Long An, Tây Ninh, Quảng Nam), ở cấp chi cục có tới 9 đơn vị có quá nửa số cán bộ làm công tác giá có kinh nghiệm dưới một năm.

Hiện tại, cấp chi cục không còn cán bộ chuyên trách giá, một cán bộ phải đảm nhận nhiều công việc từ khâu tiếp nhận hồ sơ, tính thuế, ký thông quan hàng hóa…, điều đó đồng nghĩa với việc hạn chế thành công của của tham vấn nếu phải tổ chức ở cấp chi cục. Tư tưởng ngại va chạm với doanh nghiệp hay với các cơ quan chức năng (ví dụ: tòa án hành chính; thanh tra…), khiến cho cán bộ và lãnh đạo một số đơn vị còn chưa triệt để, kiên quyết trong công tác nghiệp vụ.

Ở cấp chi cục còn hiện tượng làm hình thức, chiếu lệ, chưa tuân thủ quy định tại văn bản pháp quy cũng như quy chế trong nội bộ đơn vị. Chưa hết trách nhiệm khi hướng dẫn doanh nghiệp trong việc kê khai, tính thuế đảm bảo hỗ trợ cho cán bộ kiểm tra trị giá ở khâu sau. Ở cấp cục chưa thực hiện tốt công tác giám sát nghiệp vụ do chi cục thực hiện, dẫn đến việc không phát hiện hoặc phát hiện không kịp thời các sai sót trong tác nghiệp của đơn vị cấp dưới.

Giải pháp khắc phục

Mới đây, ngày 13/8/2009, Bộ Tài chính đã có Thông tư 163/2009/TT-BTC quy định một số đối tượng hàng hóa xuất nhập khẩu không phải khai báo trị giá trên tờ khai trị giá tính thuế. Cụ thể, đối với hàng hóa xuất khẩu; hàng nhập khẩu không có hợp đồng mua bán được xác định trị giá tính thuế theo khai báo; hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng miễn thuế, xét miễn thuế; hàng hóa nhập khẩu theo loại hình nhập nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu; hàng nhập khẩu thuộc đối tượng không chịu thuế; hàng hóa nhập khẩu thuộc loại hình tạm nhập tái xuất; hàng hóa không thuộc đối tượng phải xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu theo một trong 6 phương pháp xác định trị giá tính thuế quy định tại Thông tư 40/2008/TT-BTC (ngày 21/5/2008). Tuy nhiên, những hàng hóa nhập khẩu trên vẫn phải khai báo trị giá trên tờ khai hàng hóa xuất nhập khẩu theo quy định.

Tổng cục Hải quan cho biết sẽ tập hợp những vướng mắc mang tính kỹ thuật, những vướng mắc phát sinh trong triển khai thực tế 1 năm qua để: Ban hành văn bản hướng dẫn chung toàn ngành thực hiện thống nhất. Kiến nghị với Bộ Tài chính, Chính phủ sửa đổi hệ thống văn bản giá hiện nay để giải quyết triệt để các vướng mắc. Đồng thời, xây dựng lộ trình phối hợp các bộ ngành, hiệp hội, hải quan các nước, cũng như với các công ty cung cấp tin… và trình Bộ Tài chính ban hành khung pháp lý cho việc sử dụng các kênh thông tin này nhằm mục đích làm phong phú thêm nguồn thông tin hỗ trợ công tác giá. Hỗ trợ về công tác đào tạo nghiệp vụ kiểm tra, tham vấn, xác định trị giá, thu thập, cập nhật, khai thác và sử dụng thông tin.

Đối với cơ sở dữ liệu giá, Tổng cục Hải quan sẽ tiếp tục rà soát để xây dựng danh mục quản lý rủi ro phù hợp với tình hình thực tế và khả năng gian lận thương mại trong từng thời kỳ. Xây dựng, bổ sung các mức giá kèm theo danh mục trên cơ sở thông tin thu thập được và kiến nghị của các cục hải quan địa phương. Thường xuyên rà soát để kịp thời điều chỉnh các mức giá không còn phù hợp do sự biến động của thị trường (dự kiến 1 tháng/1 lần).

Trong công tác thu thập, cập nhật, phân tích, sử dụng cơ sở dữ liệu giá, Tổng cục Hải quan đã triển khai xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu mới để thay thế GTT22, đến nay Đề án cơ sở dữ liệu giá đã được Lãnh đạo Tổng cục phê duyệt và đang trong giai đoạn triển khai tiếp theo, dự kiến đến cuối năm 2010, hệ thống sẽ đưa vào thử nghiệm nhằm áp dụng chính thức trong năm 2011. Vụ Kiểm tra thu thuế XNK phối hợp với Cục công nghệ thông tin và thống kê hải quan chú trọng duy trì, bảo đảm hệ thống nhằm cải thiện hơn nữa tốc độ tra cứu; kiểm soát dữ liệu truyền nhận…

Về phía các cục hải quan địa phương, Tổng cục Hải quan yêu cầu: Thực hiện đúng các văn bản pháp quy về hướng dẫn kiểm tra, tham vấn, xác định trị giá, tổ chức thu thập, phân tích và khai thác thông tin trong đó cần tập trung các nội dung sau: Thực hiện kiểm tra theo nguyên tắc quản lý rủi ro trong đó ưu tiên tập trung nguồn lực đối với danh mục mặt hàng rủi ro, danh mục mặt hàng trọng điểm.

Tập trung nguồn lực, xây dựng mặt hàng trọng điểm và mức giá kèm theo phù hợp với tình hình thực tế tại đơn vị để hỗ trợ công tác kiểm tra, tham vấn (không xây dựng mặt hàng trọng điểm tràn lan nhưng cũng không xây dựng quá ít, mang tính hình thức, chiếu lệ), đồng thời cập nhật thường xuyên sự biến động mức giá đối với mặt hàng quản lý rủi ro để kiến nghị Tổng cục Hải quan điều chỉnh.

Thực hiện tham vấn theo đúng đối tượng, có cơ sở, căn cứ rõ ràng. Tham vấn phải được thực hiện ở cấp cục trừ trường hợp được cục trưởng phân cấp và chỉ áp dụng đối với mặt hàng trọng điểm. Thực hiện xác định trị giá sau tham vấn theo đúng thời gian, trình tự, phương pháp và dữ liệu quy định. Có giải pháp xử lý đối với các trường hợp cố tình không thực hiện chế độ quy định, chỉ đạo của cơ quan quản lý cấp trên, các trường hợp sai phạm sách nhiễu, thông đồng với doanh nghiệp.

Thường xuyên rà soát Danh mục mặt hàng trọng điểm để bổ sung hoặc đưa ra khỏi Danh mục theo thực tế tình hình nhập khẩu tại đơn vị, đảm bảo đúng nguyên tắc xây dựng và quản lý mặt hàng trọng điểm, quy định tại Thông tư 40/2008/TT-BTC (ngày 21/5/2008) của Bộ Tài chính.

Trong quy chế nghiệp vụ giá của đơn vị, phải bổ sung nhiệm vụ đôn đốc, rà soát nhắc nhở không để xảy ra tình trạng thiếu, mất dữ liệu trên hệ thống GTT22. Đồng thời yêu cầu làm rõ nguyên nhân, lý do, trách nhiệm của cán bộ, công chức trong việc cập nhật và truyền nhận dữ liệu, chấm dứt tình trạng thiếu dữ liệu như hiện nay.

Các đơn vị quán triệt đến từng cán bộ cập nhật dữ liệu vào hệ thống các yêu cầu về cập nhật đã được quy định chi tiết tại các văn bản hướng dẫn có liên quan. Ví dụ: Việc nhập tên hàng phải theo đúng quy định tại Thông tư 40/2007/TT-BTC và quy trình kiểm tra, xác định trị giá tính thuế, cụ thể phải nhập đầy đủ, chính xác các tính năng, công dụng, thông số kỹ thuật… của hàng hóa, đảm bảo cho việc phân loại hàng hóa và phân biệt được hàng hóa này với hàng hóa khác.

(Kim Hoa)

No comments:

Post a Comment